Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2024

YOUTUBER ĐẠT NÚT KIM CUƠNG

Người đạt nút kim cương YouTube nhanh nhất Việt Nam: Mỗi tháng tăng hơn 3 triệu sub!

 

Nhờ chăm chỉ đăng video ngắn lên YouTube Shorts, anh Trịnh Công Tuấn nhanh chóng sở hữu nút kim cương YouTube. Có những tháng kênh tăng từ 3-4 triệu người đăng ký theo dõi, tức là bằng một nhà sáng tạo nội dung xây kênh trong cả năm, thậm chí vài năm chưa chắc có được.

https://youtu.be/Rr-NQrNfyH4 



Thứ Hai, 16 tháng 9, 2024

Đào, Phở và Piano.

Dư luận phân cực rõ rệt sau khi xem phim Đào, Phở và Piano.

Một bên là sự chê bai không ngớt về tính giả chân như trên sân khấu kịch, về kỹ xảo non tay, về kịch bản gượng ép, thậm chí về sự trang điểm lộ liễu của nhân vật nữ trong bối cảnh chiến tranh…vv. Một bên là những lời tung hô ngợi ca về khả năng lấy nước mắt, về cơ hội học sử Việt, và đặc biệt là về lòng yêu nước và tự hào dân tộc.

---

KHI SỰ PHÂN CỰC TRỞ NÊN ĐỘC HẠI

Sự phân cực và đa dạng (trong nguồn gen sinh học cũng như nguồn “gen” trí tuệ) vốn là nền tảng cho sự chọn lọc và cạnh tranh lành mạnh của xã hội loài người. Tuy nhiên, sự phân cực trở nên nguy hiểm khi đằng sau nó là chữ “cảm xúc (cực đoan)”.

"Affective polarisation" là một loại phân cực dựa vào những xúc cảm bị đẩy đến cao trào của sự bất tín và khả tín, ghê tởm và tôn sùng, hận thù và ngưỡng mộ. Đó là khi người ta không chỉ bình luận về bộ phim mà còn bình luận về những người có cùng hoặc trái quan điểm với mình. Đây là hai trong số rất nhiều lời bình phẩm trên mạng xã hội:

“Ai dám phán xét lịch sử là bọn phản động, đu càng, vô ơn”.

“Không thể nuốt trôi sự ngây thơ và ngu muội của những con bò rơi nước mắt khi xem phim. Tao thì cười són đái”.

---

PHÂN CỰC CHÍNH TRỊ VÀ CÁI MŨ “PHẢN ĐỘNG”

Nếu để ý thêm một chút, ta sẽ thấy ở hai bình luận trên, đứng bên cạnh “cảm xúc cực đoan” là “lý tưởng chính trị”.

"Ideological polarisation" là một loại phân cực dựa vào sự đối lập của niềm tin có tính chính trị như các cặp đối kháng giữa “dân chủ - cộng hòa”, “bảo thủ - cấp tiến”, “cánh tả - cánh hữu”, “cộng sản - tư bản”.

Trong câu chuyện của chúng ta, sự phân cực đó có tên là “bò đỏ - phản động”. Chữ “phản động” từ thời cách mạng Pháp vốn có nghĩa là bảo thủ không chịu thay đổi (reactionary). Nó thoạt tiên được dùng để chỉ những kẻ chỉ khư khư “bảo vệ thể chế”, không chịu nhận ra rằng chủ nghĩa xã hội là tương lai tất yếu của nhân loại. Hiểu nôm na, ai ngồi yên là đồ phản động.

Tuy nhiên giờ đây, trong bối cảnh chính trị Việt Nam nơi chủ nghĩa xã hội của tương lai được cho là đã bắt đầu, việc “thay đổi thể chế” mới bị coi là phản động. Điều này dẫn đến sự phi lý có tính nội hàm khiến nhiều người phải xoắn não: Ai chuyển động là đồ…phản động (!)

---

PHÂN CỰC CHÍNH TRỊ PHI CHÍNH THỐNG

Cặp đối kháng “bò đỏ - phản động” trong bối cảnh chính trị Việt Nam là một trường hợp đặc biệt của phân cực chính trị.

Lý do thứ nhất là bởi từ “phản động”, trong bối cảnh Việt Nam cần phải hiểu theo nghĩa gần giống với “phản bội” (Tổ Quốc). Vì thể chế Việt Nam chỉ có một đảng duy nhất lãnh đạo, bất cứ hành động nào phản kháng lại cách thức tổ chức đó lập tức trở thành một cực đối lập chính trị một cách phi chính thống.

Cực đối lập này tồn tại kiểu “du kích” “lề trái” trên mạng xã hội, ở hải ngoại, trong các hội nhóm không được nhà nước công nhận, trong nghệ thuật cũng như diễn ngôn phi chính thống, trong các mối quan hệ xã hội hàng ngày, trong ý thức nội tại của một bộ phận người dân, và đặc biệt là trong một số phiên tòa xử các nhà bất đồng chính kiến về tội “chống phá nhà nước”.

---

CHÍNH TRỊ HÓA NHỮNG VẤN ĐỀ XÃ HỘI

Một đặc điểm của phân cực là những khác biệt không trực tiếp liên quan đến chính trị cũng sẽ bị chính trị hóa. Ví dụ, “phân cực về quyền bỏ thai” thường bị đem ra để kích động “phân cực cảm xúc cực đoan”. Phe cánh hữu cho rằng ai ủng hộ bỏ thai là “ác quỷ giết người”. Phe cánh tả cho rằng ai ép buộc một phụ nữ phải đẻ con, bất chấp nguồn gốc thai nhi là do cưỡng hiếp, hoặc bất chấp hệ lụy lâu dài cho chính cô ấy, cho đứa con và cả xã hội mới là kẻ “giết người không dao”.

Ở Việt Nam cũng vậy, rất nhiều những vấn đề xã hội không trực tiếp liên quan đến chính trị cũng có thể bị chụp mũ “phản động”. Vì Đào, Phở và Piano là một bộ phim có gắn với tình yêu nước, một số người chê bai nó đã bị coi là “phản động”. Tương tự ở đầu kia thái cực, một số người khen ngợi phim (do nhà nước làm, phim về cách mạng) đã bị gọi là "bò đỏ".

Về bản chất, đây chính là một biểu hiện rất tự nhiên của phân cực chính trị, nếu bạn phản đối A thì bạn là B, nếu bạn ghét cánh tả thì bạn là cánh hữu, nếu bạn phản đối “nhà nước” thì bạn là “phản động”, nếu bạn ủng hộ các sản phẩm của chính quyền cộng sản thì bạn là "bò đỏ".

Một người bạn của tôi sau khi sống ở Việt Nam gần hai chục năm đã đùa rằng, việc gọi ai đó ở Việt Nam là “phản động” cũng giống như việc ở quê hương mình, anh từng bị chửi là “con chó cánh tả” (hàm nghĩa cái gì cũng sủa), hay hàng xóm của anh bị chó ị một bãi trước nhà và lời nhắn “đống phân cánh hữu” (hàm ý bảo thủ đến mức thối như phân).

Tôi phải tế nhị nhắc nhở anh rằng so sánh như thế là khập khiễng. Vì có tính “phi chính thống” nên Việt Nam tuy có “phân cực chính trị” nhưng lại không có “phân chia quyền lực”. Bị gọi là “chó cánh tả” hay “phân cánh hữu” thì khó chịu thật đấy, nhưng không mấy ai vì thế mà phải vào tù. Còn bị gọi là “phản động” ở Việt Nam thì có lẽ không an toàn chút nào.

---

DI CHỨNG CHIẾN TRANH TRONG PHÂN CỰC

Tuy nhiên, điểm đặc biệt trong câu chuyện của chúng ta không phải là việc “chính trị hóa một vấn đề xã hội”, mà đó là chính trị hóa "nhầm" thời điểm lịch sử.

Trong bối cảnh của Đào, Phở và Piano - một bộ phim chống thực dân Pháp - thì kẻ “phản bội” hẳn phải ủng hộ Pháp. Tuy nhiên, nhiều người chê phim lại bị chụp mũ “phản động” với mặc định là họ ủng hộ …Mỹ. Bằng chứng là những câu chửi thường liên quan đến một cuộc xung đột chính trị từ gần nửa thế kỷ trước giữa miền Bắc cộng sản và miền Nam cộng hòa. Họ bị chửi là “ba sọc”, “ba que”, “đu càng”. Họ cũng bị chửi là “khát nước” và “phản động” - hai từ thường được dùng trong bối cảnh cuộc chiến Bắc Nam chứ không phải cuộc chiến chống thực dân.

Việc những người chê phim “chống Pháp” bị chửi bằng diễn ngôn “chống Mỹ” và “chống ngụy quân ngụy quyền” là một tín hiệu đáng lo ngại. Vũ khí sát thương của “quá khứ này” vẫn tiếp tục được dùng để sát hại một “quá khứ khác”, thậm chí, được dùng để trừng phạt hiện tại và tương lai.

Đáng lo hơn nữa là sự chửi bới và kết tội đó phần lớn đến từ giới trẻ, bất chấp việc chính quyền Việt Nam đã công khai loại bỏ diễn ngôn “ngụy quân ngụy quyền” sửa lại sách giáo khoa, khôi phục lại tính chính danh cho chế độ Sài Gòn. Nó cho thấy công cuộc hòa hợp hòa giải không những vẫn còn dang dở với thế hệ đi trước mà di chứng đã kịp di truyền đến thế hệ hôm nay.

---

CƠ HỘI RÃ CỰC BỊ BỎ LỠ

Về khía cạnh lịch sử, Đào, Phở và Piano hoàn toàn có thể trở thành một yếu tố rã cực (de-polarisation) kết nối hàn gắn dân tộc. Nó không dính đến Mỹ hay Trung Quốc mà zoom ống kính vào thời toàn dân chống Pháp.

Ở thời điểm lịch sử ấy, giai cấp tư sản chưa bị bôi đen thành “một lũ đỉa hút máu dân nghèo”, tầng lớp trí thức chưa bị gạt ra ngoài lề, người nghệ sĩ chưa trở thành công cụ tuyên truyền, tình yêu lứa đôi chưa bị coi là "đồi trụy" và tôn giáo chưa phải là “thuốc phiện của nhân dân”. Những nhân vật trong bộ phim cũng không bị chủ nghĩa anh hùng làm mờ đi những góc khát khao rất dung dị, rất người - điều khiến thế hệ thời bình có thể cảm thấy mình trong đó.

Nhà văn Hà Thủy Nguyên đã nhận xét như sau:

“Nhân vật có nhiều tố chất nổi loạn "lãng mạn tiểu tư sản". Đôi nam nữ chính là những người luôn "chống lệnh", ông họa sĩ cũng không tìm thấy đam mê trong khắc họa hình ánh người lính hào hùng, vị cha xứ sẵn sàng bước ra khỏi các quy tắc giáo điều của Nhà Thờ... Các nhân vật cư xử rất con người, thậm chí rất tầm thường. Chẳng nhân vật chính nào trong đó lý trí, chẳng nhân vật nào giỏi hay đẹp, chẳng nhân vật nào coi cuộc chiến là một lý tưởng... mà chỉ cố bảo vệ những gì mình tin là của mình, xứng đáng để giữ gìn.”

Tuy nhiên, cơ hội rã cực ấy bị bỏ lỡ bởi sự “phân cực cảm xúc cực đoan” như đã nêu ở phần đầu bài viết. Đây là một bài học kinh điển trong lĩnh vực khoa học về phân cực chính trị.

Trong nhiều nghiên cứu thần kinh học nổi tiếng, hai nhóm người cánh hữu và cánh tả cùng xem video, ví dụ, về quyền bỏ thai. Bộ não của họ xử lý thông tin GIỐNG NHAU khi video đó dùng ngôn ngữ trung tính, khách quan và khoa học. Tuy nhiên, bộ não của họ phân cực, kích hoạt các cảm xúc hận thù, sợ hãi và kinh tởm khi xem video dùng ngôn ngữ kích động, ủng hộ hoặc phản đối cực đoan bằng cách gắn quyền bỏ thai với sự đê hèn hoặc cao cả của một lý tưởng chính trị.

Chúng ta ghét nhau không phải vì chúng ta KHÁC nhau. Chúng ta ghét nhau và dạt về hai thái cực vì đã dùng những lời lẽ làm nhau đớn đau. Ngôn ngữ như dao giết người. Điều này cũng đã được đúc rút từ bao đời nay: "lạt mềm buộc chặt"; "Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau"

Thật tiếc cho một bộ phim có tiềm năng hàn gắn, nhưng sự miệt thị và tôn vinh quá đà đã khiến “cảm xúc cực đoan” tiếm ngôi trở thành nhân vật chính.

---

Nguyễn Phương Mai

#NguyenPhuongMai

 

 

Giáo dục khai phóng

GIÁO DỤC KHAI PHÓNG NHÌN TỪ HIỆN TƯỢNG CHU NGỌC QUANG VINH

1- Khái niệm về Giáo dục Khai phóng xuất hiện từ xa xưa. Nội hàm chính của Giáo dục Khai phóng là đào tạo con người với các ý nghĩa cao thượng và luôn hướng thiện. Cho dù có biến thiên qua các thế kỷ, thậm chí qua các thiên niên kỷ, nội hàm đầy tính nhân văn cao cả này luôn được giữ gìn vun đắp thêm. Ta có thể hiểu Giáo dục Khai phóng là truyền lại kiến thức, tinh thần, phương pháp học các kiến thức khoa học, tự nhiên và xã hội, mà người tiếp thụ có thể dùng chúng một cách tự do, nhân bản. Nói một cách khác, Giáo dục Khai phóng nhằm giải phóng trí tuệ con người trong đó sứ mạng tạo con người có nhân cách quan trọng hơn con người có nghề nghiệp.

Ý nghĩa đó thực nhân văn, hiểu theo đó ta thấy Giáo dục Khai phóng tại Việt Nam không chỉ là sự nghiệp của các mái trường từ tiểu học, trung học lên đại học, mà còn là sự nghiệp chung của cả xã hội trong đó hệ thống chính trị giữ vai trò then chốt vì sự phân quyền trong xã hội Việt Nam rất giới hạn.

2- Thời xưa người ta cho rằng Giáo dục Nhân cách cần dựa nhiều vào sách vở. Điều này cũng tương đồng với quan niệm của nền Giáo dục Tứ thư Ngũ kinh của Trung Quốc. Thời ấy, kiến thức về nhân cách được cho là tách biệt với kiến thức về khoa học.

Sự tiến bộ ngày càng nhanh chóng của Khoa học, bắt đầu từ thế kỷ thứ mười bảy (thế kỷ XVII, thế kỷ Cách mạng Khoa học), khiến nền Giáo dục được dần dần lôi khỏi lô cốt giáo điều. Các trường đại học nâng dần tầm quan trọng của khoa học tự nhiên và chính xác. Những quan niệm về nhân cách con người được xem xét lại, được soi rọi dưới ánh sáng phê phán của tinh thần khoa học. Người ta nhận thấy tính chính xác của khoa học và lý tính cũng mang lại vẻ đẹp nhân văn vì đem tới những hiểu biết mới, giải phóng con người khỏi những hủ tục, định kiến, lầm lạc. Các giá trị đạo đức luôn là nền tảng cho xã hội ấm no, tiến bộ. Đây chính là nền tảng của thế kỷ thứ mưới tám (thế kỷ XVIII), thế kỷ Khai sáng.

Trung Quốc từng là một nền văn minh với các khám phá khoa học xuất sắc, phải chăng do con người nhân văn núp quá kỹ trong lô cốt giáo điều khiến khoa học chính xác không thể xâm nhập và Trung Hoa chìm trong chậm tiến khoa học kỹ thuật hàng mấy thế kỷ?

3- Nền Giáo dục Khai phóng hiện đại không đối lập giáo dục nhân văn với giáo dục khoa học, nhưng trong khi vẫn coi trọng giáo dục nhân văn thì cho rằng tất cả các kiến thức cần được đặt câu hỏi về tính chính xác. Trí tuệ con người cần được giải phóng khỏi tất cả mọi áp lực giáo điều. Do đó mọi câu hỏi về tính chính xác của bất kỳ loại kiến thức nào cũng được khuyến khích, hoan nghênh, cá nhân và xã hội cần đón nhận những câu hỏi đó với tinh thần cởi mở, thái độ thực sự cầu thị. Không chỉ đặt câu hỏi với kiến thức, lập luận của người, ta cũng đặt câu hỏi với kiến thức, lập luận của ta. Nếu chưa thể đặt câu hỏi cho chính ta, ta cũng cần luôn sẵn sàng cho những câu hỏi đó từ người khác, luôn tự đặt mình trong tư thế có thể sai. Tinh thần Hoài nghi Khoa học là điều kiện không chỉ cho sự tiến bộ của khoa học, tri thức, mà cho cả sự tiến bộ, văn minh của xã hội. Một xã hội thiếu tinh thần hoài nghi ấy sớm muộn gì cũng chìm vào u mê, chậm tiến.

4- Sự việc anh Quang Vinh cho chúng ta những suy nghĩ. Xã hội văn minh khuyến khích các phát hiện mới, cách đặt vấn đề mới. Nếu không đồng ý với ý kiến khác biệt, cách trả lời cũng hòa nhã và gợi sự tranh luận cầu thị. Tiếp nhận và suy nghĩ thấu đáo các phê phán đã thành nếp ứng xử trí thức, văn minh

Rất mừng là tinh thần phê phán không vắng mặt trong xã hội vì được thể hiện trên mạng xã hội

Nếu giới hữu trách của Việt Nam tìm thấy nguồn lực của sự minh triết nằm trong tinh thần Hoài Nghi Trí Thức, khuyến khích và xiển dương tinh thần ấy, người Việt sẽ cho thấy trí tuệ của mình.

Các phản ứng ồn ào vùi dập ý kiến của anh Quang Vinh những ngày qua, chỉ là ồn ào xuất phát từ cách quản trị xã hội chưa thích hợp, không phản ánh đúng tầm vóc của lực lượng trí thức Việt.

Ngày 4 tháng 9 năm 2024

Lược theo FB LVan Le

https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=2589964457879654&id=100005983757010