Bài thơ VỚI CON được đăng trên báo Văn Nghệ năm
1980 đã làm ông một phen lao đao, lận đận, lên bờ, xuống ruộng bởi những người
lãnh đạo địa phương thiển cận, bảo thủ và ấu trị lúc bấy giờ. Sau đây là nguyên
văn bài thơ:
Con ơi con thức dậy giữa
ngày thường
Nghe chim hót đừng nghe mê mải quá
Qua đường đất đến con đường sỏi đá
Cha e con đến lớp muộn giờ.
Con ơi con nàng Bạch Tuyết trong mơ
Không thể nào yêu con thay mẹ được
Và vì thế, nếu khuy áo con bị đứt
Thì nói lên để mẹ khâu cho.
Và con ơi trên ấy ngân hà
Có thể rồi con sẽ lên đến được
Nhưng đêm nay thì con cần phải học
Bốn phép tính cộng trừ hay đọc một trang thơ.
Con ơi con, nếu thầy giáo dạy con
Có ánh sáng bảy màu trong ánh sáng
Thì con hỡi hãy khêu cho rạng
Ngọn bấc đèn con hãy vặn lên to.
Con ơi con, trái đất thì tròn
Mặt trăng sáng cũng tròn như đĩa mật
Tất cả đấy đều là sự thật
Nhưng cái bánh đa tròn, điều đó thật hơn!
Mẹ hát lời cây lúa để ru con
Cha cày đất để làm nên hạt gạo
Chú bộ đội ngồi trên mâm pháo
Bác công nhân quai búa, quạt lò.
Vì thế nên, lời cha dặn dò
Cũng chưa hẳn đã là điều đúng nhất
Cha mong con lớn lên chân thật
Yêu mọi người như cha đã yêu con.
Vào một buổi chiều mùa hè năm 1990, khi tôi công tác tại Công ty XNK Nghệ An, đang ngồi uông bia trước cổng Sở Văn hóa thông tin Nghệ An số 74 đường Nguyễn Thị Minh Khai, thành phố Vinh thì thấy Thạch Quỳ bước vào quán, tôi ngỏ lời kính mời anh, có lẽ vì tự giới thiệu là đồng hương cùng quê Đô Lương, nên anh vui vẻ nhận lời...Tôi biết Thạch Quỳ vì anh là một thầy giáo dạy toán cấp 3 nhưng lại nổi tiếng trên làng văn nghệ cả nước, đây là dịp may được gặp trực tiếp và được nghe anh nói về thơ...
Sau hôm gặp Thạch Quỳ tôi tìm được một bài viết của nhà thơ Võ Văn Trực quê gốc làng Hậu Luật, xã Diễn Bình, Diễn Châu nói tác giả bài thơ Với Con là "Ông Đồ Gàn xứ Nghệ"...
Nhà văn Võ Văn Trực, một người anh, người bạn rất thân thiết của Thạch
Quỳ, trong bài viết của mình trên báo CAND đã gọi Thạch Quỳ là Ông đồ gàn
xứ Nghệ. Theo nghĩa đen thì Thạch Quỳ đúng thế. Ông đồ - Thạch Quỳ là Ông đồ xứ
Nghệ thì Thạch Quỳ không chạy đi đâu được; Còn gàn thì… người Nghệ, trí thức
Nghệ, kẻ sĩ Nghệ thảy đều gàn. Gàn theo nghĩa là ít hòa đồng, là ngang, là
bướng, là lập dị trong mắt đám đông. Thạch Quỳ gàn, theo anh Trực là thích cà
pháo mắm tôm, cả khi được người đẹp mời cơm cũng khoai luộc, cà pháo, và mắm.
Thạch Quỳ gàn nhưng không phá ngang. Lão chỉ gàn khi gặp những gì không thực
chất, những gì hình thức, giả dối mà thôi!
Thạch Quỳ tên thật là Vương Đình Huấn, quê ở
Trung Sơn là vùng đất khá trù phú. Cánh đồng lúa nước trải trước làng như tấm
thảm xanh, chưa tới mức mênh mông nhưng cũng có thể gọi là thẳng cánh cò bay.
Phía sau làng là con đường quốc lộ 15. Bên kia đường 15 là cánh bãi, phù sa
sông Lam mang đến cho người dân nơi đây những rau trái bốn mùa lắm thức, lắm
món thật dồi dào, phong phú.
Họ Vương ở Đô Lương là những dòng họ lớn có
nhiều khoa bảng đỗ đạt. Họ Vương có nhiều nhà thơ như Vương Trọng, Thạch Quỳ,
Vương Cường, Vương Duyệt, Vương Đình Trâm…
Trông Thạch Quỳ chẳng khác gì những hạt bụi giữa
đám bụi người đông đảo. Nhưng đánh hai chữ Thạch Quỳ vào Google thì có hàng vạn
thông tin về ông..
Cái ông đồ gàn này đẻ ra dưới chân Núi Quỳ tính cách cứng như đá, đến xứ Nghệ
hỏi trăm người thì có đến trăm rưỡi người biết anh nhưng đa phần đều nể sợ,
chơi thân thì rất hiếm. Đến Hội văn Nghệ hỏi nhà Thạch Quỳ đâu, ai cũng nhiệt
tình chỉ dẫn, hẹn đến chơi nhà anh thì mắt trước mắt sau nói cười nhàn nhạt,
kiếm cớ chuồn hẳn.
Tính gàn có từ thời trẻ, làm giáo viên toán dạy
cực siêu nhưng soạn giáo án chẳng giống ai, lên lớp chẳng giống ai, chấm điểm
chẳng giống ai, đối xử với học trò cũng chẳng giống ai. Anh nói với học trò tôi
ăn lương nhà nước không phải để đi truyền thụ kiến thức đâu nhé, các anh chị
đừng có mơ, lương nhà nước trả tôi chỉ vừa đủ cho tôi gợi mở kiến thức thôi,
kiến thức không phải mấy món đồ mồi thầy cô bày ra cho các anh chị chén đâu,
muốn giỏi giang thì liệu thần hồn tự đi mà kiếm lấy.
Có người nghe được hỏi anh tại sao lại nói với
học trò như vậy, anh cười khấc khấc, nói bởi vì học trò của tôi không phải là
những con vẹt, chúng là con người, con người viết hoa hẳn hoi đấy nha chứ không
phải hạng cá ươn như các anh đâu. Từ khi vác ô đi làm anh công chức nhà nước
Thạch Quỳ đả đồng sự kiểu đó nhiều vô thiên lủng, người ngoài nghe sướng rêm,
kẻ trong giận tím ruột.
Khoảng năm 1967 khi anh còn dạy ở miền tây Nghệ An, nghe có người xin ra HTX,
nhà trường cử anh về tận nhà gặp gỡ động viên giải thích cho người này. Anh tới
hỏi răng bác bỏ HTX? Người này cười cái hậc, nói tui như con gà, muốn ở trong
chuồng lắm chớ! Nhưng trong chuồng có con cáo, có ai bắt cáo cho mô mà vô.
Thạch Quỳ gật gà gật gù, nói hay hay giỏi giỏi, rồi đi kể chuyện khắp nơi. Ông
xếp huyện gặp Thạch Quỳ, nói anh là thầy giáo tại sao lại đi tuyên truyền lời
lẽ của bọn phản động. Thạch Quỳ cười khấc khấc, nói chính bác mới là thằng phản
động, bởi vì bác cấm đoán những lời nói thật.
Tất nhiên sau đó Thạch Quỳ mất dạy. Anh bỏ giáo
dục sang hẳn làng văn nghệ, tình hình chẳng khá hơn, đồ gàn gặp đồ lót đồ hèn
đồ dơ chịu làm sao thấu. Năm 1980 anh làm bài thơ Với con ai cũng
khen hay, báo Nhân dân đăng lại đàng hoàng nhưng trong tỉnh nổi lên một cơn
sóng thần phản ứng dữ dội. Xuân Diệu ba chân bốn cẳng chạy về Vinh, Hội nhà văn
cử hết đoàn này sang đoàn khác về giải thích này nọ nhưng chẳng ăn thua, cơn
sóng thần ngày một lan toả, ai cũng lo cho anh, mình cũng lo. Mình gặp anh ở Hà
Nội, nói răng rồi tình hình răng rồi, anh nhăn răng cười, nói tình hình là rất
tình hình. Rồi anh nốc cạn ly rượu, nhổ nước bọt cái toẹt, nói è he, mần cặc
chi tao.
Dạy học bỏ dạy, làm tạp chí văn nghệ được mươi
số cãi nhau với mấy ông khóm róm không xong, anh phất áơ “ từ quan”, nói è he ẻ
ẻ quẹt quẹt, ba vạn cũng bỏ. Năm 1996 gặp anh ở Hà Nội, anh kéo mình vào quán,
nói này, ông làm báo với tôi nhé, thằng bạn tôi ở Bộ giao thông mời tôi ra làm
báo Tiếng còi. Mình cười hì hì, nói anh thổi còi hay bạn anh thổi còi? Nếu hơi
của anh còn việc thổi là của bạn, anh có chịu không. Anh uống cạn chén rượu,
nhổ nước bọt cái toẹt, nói rứa thì ẻ vô.
Được vài tháng gặp anh ở ga, anh kéo vào quán,
nói tôi lại về Nghệ đây. Mình hỏi sao, anh ngồi yên không nói, uống rượu tì tì,
một lúc nhổ nước bọt cái toẹt, vỗ vai mình cái bộp, nói này ông, tôi sống với
mấy đứa ác còn dễ chịu hơn sống với mấy đưa ngu. Mình chẳng biết nói sao, chỉ
khẽ vỗ nhẹ vai anh, nói thôi anh về quê tiếp tục công tác rượu chè gái gú cho
khoẻ xác. Anh nhăn răng cười, nói phải phải, mạng tôi chỉ hợp với gái thôi,
chẳng hợp với thằng đéo nào.
Mình cười khì, nói anh phét vậy thôi chứ anh tán gái vụng bỏ cha. Mấy cô yêu
thương ngưỡng mộ thì anh coi người ta bằng nửa con mắt, mấy cô coi anh bằng nửa
con mắt thì anh đánh đu suốt đời, cuối cùng xôi hỏng bỏng không. Anh cười khấc
khấc khấc, nói rứa mới đồ gàn. Tôi mê gái từ lúc sáu tuổi, không nói phét đâu
nhé, các cô gái đẹp trong làng tôi đều mê, bất kể họ hơn tôi vài chục tuổi. Ra
đồng tôi cứ bám theo họ, lắm khi họ phát điên, đuổi đánh chí chết. Đường từ
làng ra đồng có hai hàng cây xương rồng, cứ một đoạn tôi lại khắc tên một cô
tôi mê vào cây xương rồng, sáu bảy chục cô cả thảy. Cô nào cười chồng tôi mò
đến đám cưới đứng đầu ngõ đái một phát rồi bỏ chạy, coi như trả thù xong. Dứt
lời anh cười to, nói bây chừ thì đi mô cũng mò về mụ Nhã, ẻ vô gái gú, quẹt
quẹt.
Chị Nhã vợ anh xưa xinh đẹp nhất làng, yêu anh
từ 13 tuổi, đến 16 tuổi thì theo anh bôn ba cho đến bây giờ, khổ đau đói nghèo
đắng cay đủ hết không một lời ca thán. Hôm mình đến chơi nhà, bất ngờ thấy chị
quá xinh đẹp so với anh. Chị lúi húi tất tả hết vào bếp xáo nấu, ra vườn hái
rau, xuống bể rửa chén, nói mãi chị mới chịu ngồi vào mâm. Hồi này xứ Nghệ có
phong trào nuôi hươu sao, một con hươu cái đến mấy chục triệu. Anh khoác vai
chị hôn cái chụt, nói em có biết anh mơ gì không, anh mơ sáng mai ngủ dậy, bên
anh không phải là em mà là một con hươu sao.
Mọi người cười, chị cũng cười rất tươi. Mình nói
anh nói thế mà chị không giận anh à. Chị lườm yêu anh, nói cả tỉnh cả nước giận
ông này rồi, chị giận nữa thì ông sống với ai. Anh cười khấc khấc khấc, nói anh
nói chơi vậy thôi, bây giờ anh vô dụng rồi, anh ước anh biến thành con hươu sao
để em bán đi lấy tiền nuôi con không thì cực quá.
Chị không cười, nước mắt rân rấn. Anh cười khấc
khấc khấc, chẳng phải cười, nghe như anh cố khạc ra mấy cục đắng ngắt.
Những lời thổ lộ của ông về bài thơ Với Con:
“Bài thơ tôi rất tâm đắc nhưng nó cũng làm cho
tôi lao đao. Thời ấy đất nước vừa thoát ra từ những cuộc chiến tranh, nhiều
người cứ thấy rằng chúng ta đã thắng lớn trong sự nghiệp giải phóng đất nước và
bảo vệ Tổ quốc nên lý tưởng hóa cuộc sống cho rằng sau 15 - 20 năm đất nước và
cuộc sống của người dân mình sẽ là thiên đường, trong khi, nông dân thu hoạch
mỗi ngày chưa được một lạng thóc, công nhân, trí thức hầu hết ăn hạt bo bo. Bài
thơ “Với con” là nói với con cái trong nhà nhưng thực ra là muốn tâm sự với tất
cả mọi người về hiện thực lúc đó. Khi viết bài thơ này tôi rất thận trọng vì
đụng vào sự thật ấy là chuyện lớn, không đùa được.
Bài thơ ấy không viết bằng thơ mà được viết bằng
Toán. Bởi vì Toán là chỉ có những mệnh đề khẳng định hoặc phủ định, chính xác,
rõ ràng, minh bạch. Còn thơ là ý niệm, gợi mở, ai muốn hiểu thế nào thì hiểu.
Bài thơ này có hai tầng. Tầng một chẳng có vấn
đề gì. Đó là những lời nói với con trong nhà và bám vào những chi tiết thực tế.
Ví dụ: Con đi học thì đừng nhìn cây, nhìn cỏ, nghe chim hót mà chậm giờ... Còn
nàng Bạch Tuyết con say mê đọc trong cổ tích cũng không thể thay việc chăm chút
của mẹ con hàng ngày. Đằng nào rồi cũng phải mẹ thôi.
Hay là những chuyện như quả đất tròn, vầng trăng
tròn mơ mộng cũng chưa cần thiết, cái quan trọng, gần gũi, thiết thực hơn vẫn
là cái bánh đa vừng nuôi sống con người. Nghĩa đen chỉ như vậy.
Mọi vấn đề đều nằm ở tầng hai, nhưng ở tầng hai
cũng không đơn giản, phân tích, phê phán chỉ tên tác giả, nếu “lơ mơ” sẽ thành
suy diễn. Cho nên do cách hiểu áp đặt qua bài thơ, mọi việc bùng lên thành
những chuyện phức tạp. Trong thời điểm bấy giờ sự cố ấy xẩy ra cũng là một lẽ
tự nhiên thôi mà”
“Từ một bài thơ Với con nói chuyện trong
nhà nhưng bị đưa ra cuộc họp cho là chống chủ trương, chính sách... Ở thời điểm
đó, tôi thấy mình lâm vào hoàn cảnh nan giải phải nghỉ việc cơ quan.
Tôi không dám đến nhà ai, bởi đến đâu, gặp ai
cũng có thể gây phiền. Tôi sắm một cái cần câu, từ sáng sớm đi lang lang ra hồ
Thạch, cuối chiều thì về. Câu cá mãi mấy tháng liền cũng chán, trong người thấy
quá mệt mỏi.
Nhân lúc có việc nhà, tôi đã lên tàu ra Hà Nội. Mới sáng sớm chưa rõ mặt người
đến nhà người em trai đang là cán bộ giảng dạy, mới nằm khoảng 15 phút đã có
tiếng gõ cửa. Một anh công an khu vực đã đến kiểm tra hộ khẩu.
“Vì bài thơ ấy đăng trên báo Văn nghệ của Hội
Nhà văn Việt Nam nên nhiều người ở Hà Nội đều biết. Ở Hà Nội dư luận có hai
chiều. Nhiều người nói rằng bài thơ ấy cũng bình thường, chẳng cần phải làm to
chuyện lên như trong này.
Sau đó Hội Nhà văn đã cử một đoàn 6 người vào tổ chức một hội thảo văn học. Đưa
thêm một số tác giả như Hồng Nhu, Bá Dũng, Xuân Hoài... ra để cùng thảo luận,
đánh giá.
Bản thân tôi được một số nhà văn nhắc đến nhiều
tác phẩm đã viết trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước và khẳng định tư tưởng các tác
phẩm ấy đều phục vụ cách mạng. Không ai đào sâu vào bài thơ “Với con” nữa...
“Tôi viết sự thật, không tính thiệt hơn, được
gì, mất gì cho bản thân. Ở thời điểm nào cầm bút viết, thì tôi cũng phải viết
những vấn đề bức xúc mà cuộc sống dội vào. Tôi đã không đầu hàng khi đã nhận
thức ra bản chất của sự việc. Đó không riêng là nỗi bức xúc của cá nhân mà là
sự thúc bách của thời đại, phải khơi dòng mở đường cho sự phát triển.
Hầu hết các vấn đề tôi viết đều là những bức xúc
của đời sống, bài nào cũng mang những câu hỏi lớn cần được trả lời. “Với con”
không phải là bài thơ hay vì nó được viết bằng Toán.
Là một nhà văn đối diện với cuộc sống, thấy vấn
đề gì bức xúc, tôi dồn tâm huyết vào để góp phần tháo gỡ những vấn đề cho toàn
dân chứ không phải chỉ là những vui buồn nhỏ của riêng mình”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét