Quê hương mỗi người chỉ một
Phạm Thị Ly
TTO - Có lẽ ai trong chúng ta cũng từng nghe bài hát này rót từng
giọt mật tha thiết vào tim: 'Quê hương mỗi người chỉ một, như là chỉ một mẹ
thôi. Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người'.
Nhưng
có bao giờ chúng ta tự hỏi, quê hương là gì, và tại sao quê hương lại có ý
nghĩa như thế với chúng ta? Vì sao mỗi lần năm hết Tết đến, hàng trăm triệu
người không quản đường xa mệt nhọc tốn kém để về quê?
Mà đâu
phải chỉ người Việt, người Trung Quốc hay dân châu Á? Các nước khác cũng vậy
thôi, ngày lễ Tạ ơn, lễ Giáng sinh hay năm mới, mọi sân bay, bến tàu đều tràn
ngập những người là người.
Người
ta vượt nhiều nghìn dặm về thăm gia đình, cha mẹ, ông bà, quê hương, để sum họp
với gia đình lớn, gặp lại anh chị em, thăm lại nơi mình trải qua thời thơ ấu.
Tại sao
chúng ta làm thế? Không chỉ là thói quen, thấy người ta làm thì mình cũng làm.
Nếu chỉ là thói quen hay bắt chước, thật không đáng để mất chừng ấy tiền bạc,
công sức, thời gian. Hẳn là nó bắt nguồn từ một nhu cầu sâu thẳm và mạnh mẽ hơn
nhiều.
Những
đứa trẻ là con nuôi, nhất là con nuôi xuyên quốc gia, khi trưởng thành hầu như
luôn có nhu cầu tìm về nguồn cội. Cho dù cha mẹ nuôi có tốt đến đâu đi nữa, mối
quan hệ giữa đứa trẻ và cha mẹ nuôi có gắn bó đến mức nào, cũng sẽ có một lúc
đứa trẻ nung nấu ý định tìm hiểu xem cha mẹ đẻ là ai, cuộc sống của họ ra sao,
quê hương, bản quán, ông bà mình như thế nào.
Những
thanh thiếu niên người Việt thế hệ thứ hai sống ở nước ngoài cũng vậy. Họ sinh
ra ở nước ngoài, hoặc rời quê hương khi còn thơ ấu, giờ đây nói tiếng Việt
không rành, nhưng vẫn cảm thấy một nhu cầu mạnh mẽ tìm hiểu về đất nước mà
mình hay cha mẹ mình đã sinh ra và khôn lớn. Vì sao vậy?
"Ta là ai, ta đến từ đâu và sẽ đi về đâu?"
Trong
bài diễn văn nhậm chức, bà Drew Faust, hiệu trưởng Trường ĐH Harvard, đã nói
rằng bốn năm học đại học là thời gian để chúng ta trả lời câu hỏi “Ta là ai, ta
từ đâu đến và sẽ đi về đâu?”. Nói một cách văn hoa, bản chất con người là tìm
kiếm ý nghĩa của sự sinh tồn, và câu hỏi quan trọng nhất là câu hỏi về căn cước
cá nhân, căn cước dân tộc của mình.
Cái gì
đã khiến chúng ta trở thành một cá nhân độc đáo, một thực thể không lặp lại,
không thể nhân bản hay thay thế? Cái gì đã gắn chúng ta với dân tộc, đất nước,
quê hương, tổ quốc? Và là một người Việt Nam thì có ý nghĩa như thế nào?
Bạn sẽ
cảm nhận được những câu hỏi này rõ rệt như cứa vào da thịt bạn khi bạn sống ở
nước ngoài, khi bạn nghe một người nói tiếng mẹ đẻ của bạn giữa một xứ sở xa
lạ.
Cách
đây vài chục năm, đi nước ngoài là cả một vấn đề. Khi có người từ nước ngoài
trở về, cả làng xúm đến nghe anh ta kể chuyện về những xứ sở xa xôi, về những
người da trắng, da đỏ, da đen mọi người chỉ thấy trong phim ảnh.
Lúc đó
lằn ranh phân biệt “nước ta” và “nước họ”, giữa “quê hương mình” và “xứ sở
người ta” có vẻ rất rõ ràng, dễ hiểu. “Ta” là khăn đen mỏ quạ, là đống rơm, đàn
bò, ngọn lúa, là cá kho canh chua bông điên điển. “Họ” là áo vét, cà vạt, là
nhà chọc trời, là bơ là sữa.
Nhưng
giờ đây, thế giới đã như một ngôi làng toàn cầu. Không chỉ người giàu mới đi
Đông đi Tây, giờ đây người nghèo cũng đi, dù là đi bán sức lao động ở xứ người,
thì cũng là tới một xứ sở khác xa lạ về văn hóa.
Đi
học, đi làm, đi du lịch nước ngoài hôn nhân đa quốc gia, làm ăn xuyên biên
giới ngày càng phổ biến. Ngày càng nhiều người biết ngoại ngữ, am tường âm
nhạc, nghệ thuật của nước ngoài, làm việc với đồng nghiệp đủ mọi quốc tịch,
thưởng thức đủ loại ẩm thực Tây Tàu.
Bằng
kinh nghiệm cá nhân, người ta khám phá ra rằng, hóa ra dù da đen, da trắng, hay
da vàng, ăn bơ sữa hay ăn nước mắm, con người ta đều chia sẻ những đau khổ, vui
sướng, sợ hãi, hi vọng, dằn vặt chẳng khác gì nhau.
Dù là
một nước giàu như Mỹ, hay còn nghèo như Việt Nam, hóa ra chúng ta đều không hài
lòng về giáo dục, đều đang đương đầu với nhiều thách thức rất giống nhau.
Dù làm
việc với đồng nghiệp Tây hay đồng nghiệp Việt, chúng ta đều có thể phải đối
diện với sự cạnh tranh, kèn cựa, hoặc có thể tìm kiếm sự hợp tác, hỗ trợ bằng
những cách rất như nhau. Vậy thì cái gì là căn cước của chúng ta như một cá
nhân, và như một dân tộc? Và tại sao chúng ta phải tìm kiếm nó?
Mỗi người có một câu trả lời
Đây là
câu hỏi không thể có câu trả lời chung. Không ai có thể trả lời thay cho ai.
Cũng không phải chỉ trả lời một lần là hết. Vì bản thân chúng ta, cả với tư
cách một sinh vật lẫn một con người xã hội, đều không ngừng diễn tiến, không
ngừng thay đổi. Dân tộc, như một tập hợp những người cùng tiếng nói, màu da,
lịch sử, cũng là một khuôn mặt không ngừng thay đổi.
Nhưng
có lẽ có một điểm chung: chúng ta đi tìm căn cước của mình, bởi đó là nhu cầu
tự nhiên của con người. Nó nằm ở ba bậc cao nhất trên đỉnh tháp nhu cầu Maslow:
được yêu mến, được gắn bó và thuộc về một cộng đồng; được người khác tôn trọng;
và đạt đến tất cả tiềm năng của cá nhân.
Chúng
ta đi tìm căn cước của dân tộc mình, cũng chính là để hiểu rõ về bản thân mình,
để tìm kiếm cảm giác được kết nối, được thuộc về, cảm giác an toàn, vì con
người vốn là một sinh vật bầy đàn. Có thể nhìn thấy điều này rất rõ khi chúng
ta chứng kiến những hành động điên rồ trong các cuộc “đi bão” mừng chiến thắng
bóng đá của đội nhà.
Dường
như niềm tự hào về những thành tích của Việt Nam có thể giúp khỏa lấp cảm giác
thiếu tự tin về bản thân mình và cộng đồng mà mình thuộc về trong mỗi chúng ta.
Với
nhiều người khác, sự gắn kết với dân tộc, tổ quốc, quê hương chính là những
niềm vui và nỗi đau mà họ cảm thấy cùng những niềm vui và nỗi đau của dân mình,
nước mình, của những con người, số phận cụ thể mà họ thấy mỗi ngày.
Lê Duy
Loan, một kỹ sư người Mỹ gốc Việt, là người châu Á đầu tiên và người phụ nữ duy
nhất được chọn vào ban lãnh đạo kỹ thuật cho hãng công nghệ toàn cầu Texas
Instruments trong lịch sử 83 năm của hãng này, đã nói với gương mặt rơm rớm
nước mắt: “Tôi yêu quê hương từ khi mới thành người”.
Quê
hương với cô là cha mẹ, ông bà, những người đã truyền cho cô niềm tin vào
giá trị cốt lõi của học vấn và sự sẻ chia, là những đứa trẻ lớn lên bên bờ tre
ruộng lúa đang khao khát được học hành và thay đổi số phận, là nỗi đau mà cô
cảm thấy khi chứng kiến một người cùng dòng máu, màu da, tiếng nói với mình bị
những người xứ khác coi thường.
Có lẽ,
với người ở trong nước, quê hương là nơi ta sẻ chia chung một số phận; với
người sống ở nước ngoài, quê hương là nơi ta sẻ chia cùng nguồn cội và lịch sử,
cùng thừa kế chung một di sản văn hóa tinh thần.
Cái gì
đã định nghĩa, đã tạo thành bản sắc cá nhân hay dân tộc của chúng ta? Ngoài một
thứ bất biến là di truyền, một thứ ta rất ít khả năng can thiệp là hoàn cảnh
sống thời thơ ấu, phần chủ yếu chính là những trải nghiệm sống của một
người.
Những
trải nghiệm này làm thay đổi nhận thức của chúng ta về tất cả mọi thứ, kể cả về
bản thân mình. Vì thế mà người ta không ngừng tìm kiếm những trải nghiệm mới,
và định nghĩa mình qua những thứ mình có hay từng trải nghiệm.
Nhưng
tình yêu thì là một trải nghiệm không cần lý giải. Nhà thơ Đỗ Trung Quân rất có
lý khi so sánh quê hương và mẹ. Con người ta có thể đi năm châu bốn bể, hưởng
đủ mọi món ngon vật lạ trên đời, vẫn cảm thấy không gì ngon bằng những món mẹ
cho ăn lúc còn thơ ấu.
Chúng
ta yêu mẹ, dù mẹ ta tóc bạc, da mồi, chân tay run rẩy, thậm chí khi mẹ thương
yêu ta theo cách mà ta không muốn.
Cũng
như vậy, chúng ta yêu quê hương cho dù còn bao nhiêu xấu xí. Chúng ta thương
đồng hương, đồng bào cả khi họ làm chúng ta tự hào và khi họ làm chúng ta xấu
hổ, nhất là khi chúng ta thấy họ đau khổ bởi những gì không phải là lỗi của họ.
Toàn
cầu hóa trong lúc xóa nhòa lằn ranh ngăn cách các quốc gia, dân tộc, và tạo
điều kiện giao lưu văn hóa mạnh mẽ hơn bao giờ hết, cũng đồng thời làm sản sinh
nhu cầu bảo vệ những nét riêng có đặc biệt của mỗi nền văn hóa.
Bạn
phải có một cái gì của riêng bạn thì bạn mới có cái để đóng góp vào gia sản văn
hóa chung của nhân loại, làm cho nó phong phú hơn. Mất đi cái căn cước đó,
chúng ta chỉ còn là hạt bụi vô nghĩa giữa cuộc đời.
Quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn, và cha sinh mẹ đẻ có một ý
nghĩa như thế nào với những người con xa xứ?
Emma
Phạm Thị Chín lớn lên trong một trại mồ côi ở Tân Mai (Biên Hòa), được đưa sang
Úc lúc 4-5 tuổi để chữa khiếm thị (nhưng không thành công) và đã được thu xếp
làm con nuôi từ nhà này sang nhà khác, tất cả là 13 gia đình cho đến khi cô 17
tuổi và có thể sống một mình. Trong từng ấy năm cho đến khi 50 tuổi, cô luôn mơ
về Việt Nam, dù mất tiếng mẹ đẻ, đêm đêm cô vẫn nghe bài hát Lòng mẹ của Y Vân:
“Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào…”. Trong mơ cô vẫn hướng về đất mẹ,
trò chuyện với người mẹ cô chưa bao giờ gặp… Và rồi có một cái gì thôi thúc
mãnh liệt cô phải trở về. Gương mặt cô khi trở về cô nhi viện, gặp gỡ các sơ đã
bồng ẵm cô lúc sơ sinh, sáng ngời một tình yêu lớn lao mà một số người trong
chúng ta, những người đang sống hằng ngày trên mảnh đất này, có thể đã không
cảm thấy. Gương mặt ấy đã gây xúc động mạnh cho cả những người đã còn và không
còn cha mẹ, những người đang sống trên quê hương và phải rời bỏ quê hương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét