Giải mã
khủng hoảng truyền thông Mỹ: một góc nhìn khác
Nguyễn
Quang Dy
Như biểu đồ dưới đây do đại học Quinnipiac nghiên cứu, nói chung, đại đa số dân Mỹ không tin truyền thông. Fox là đài
được tin tưởng nhiều nhất với 29%, sau đó là CNN với 22%. Các đài TV chính chỉ
được lác đác 10% hay ít hơn. Không có đài nào được sự tin tưởng của một phần ba
dân Mỹ.
Không có một quốc gia nào
trên thế giới có tần suất khủng hoảng truyền thông nhiều như Mỹ. Khủng hoảng
truyền thông như cơm bữa làm người Mỹ cũng quen như “chuyện bình thường” (new
normal). Đó là một đặc thù kiểu Mỹ không thể lẫn, làm cho nước Mỹ hấp dẫn và
mạnh. Tu Chính Án Thứ Nhất (First Amendment) về tự do báo chí là một trụ cột
của sức mạnh Mỹ (đang bị Trump thách thức). Đối với nhiều người, thật khó phân
biệt khi nào khủng hoảng truyền thông biến thành khủng hoảng chính trị, hay
khủng hoảng hiến pháp. Có lẽ bóng ma Watergate không bao giờ chết, và Tu Chính
Án Thứ 25 là một răn đe đối với bất kỳ tổng thống nào không muốn làm theo luật
chơi. Đó là nghịch lý của hệ thống chính trị đã làm cho nước Mỹ trở thành độc
đáo (exceptionalism), nhưng cũng dễ tổn thương.
Những
quả bom truyền thông
Tuần qua có hai sự kiện
truyền thông lớn làm rung động chính quyền Trump, trong khi cuộc điều tra của
Robert Mueller vẫn như “thanh gươm Damocles” đang treo lơ lửng trên đầu tổng
thống Trump. Thứ nhất là bài báo nặc danh (anonymous op-ed) đăng trên New York
Times (5/8/2018) mà tác giả là “một quan chức cao cấp của chính quyền” (a
senior administration official) cùng một nhóm phản kháng ngầm chống đối Trump.
Tuy hiện tượng “rò rỉ thông tin” (leaking) là chuyện thường xuyên trong Nhà
Trắng, nhưng sự kiện đầy kịch tính này đang làm cho Nhà Trắng đau đầu đối phó,
như phải dập một đám cháy lớn. Tuy các quan chức hàng đầu Nhà trắng đã lên
tiếng phủ nhận, và Trump đã yêu cầu Bô trưởng Tư pháp phải điều tra, nhưng sau
một tuần vẫn chưa biết ai là thủ phạm.
Sự kiện thứ hai là cuốn
sách mới của nhà báo Bob Woodward (“Fear: Trump in the White House, Simon &
Schuster”, September 11, 2018) như một quả bom truyền thông. Cuốn sách này được
công bố chỉ một ngày sau sự kiện bài báo nặc danh trên New York Times. Sự trùng
hợp về thời điểm, cũng như nội dung câu chuyện được kể làm cho đám cháy và quả
bom này tai hại hơn nhiều đối với Trump (khi cuộc bầu cử giữa kỳ đang tới gần).
Cách đây không lâu, có mấy sự kiện truyền thông khác cũng làm dư luận xôn xao.
Đó là cuốn sách của nhà báo Michael Wolff (“Fire and Fury”, Holt, January 5,
2018), và cuốn sách của Omarosa Manigault là một trợ lý Nhà Trắng bị sa thải,
(“Unhinged: An Insider's Account of the Trump’s White House”, Simon &
Schuster, August 14, 2018). Nhưng so với hai sự kiện truyền thông đó, quả bom
Woodward có sức công phá lớn hơn nhiều, như một quả “bom tấn”.
Bob Woodward là một nhà
báo kỳ cựu của Washington Post, không phải là một tác giả bình thường mà là một
tên tuổi lớn của báo chí Mỹ mà các tổng thống đều biết tiếng (và ngại). Ông là
tác giả của 18 cuốn sách viết về các đời tổng thống Mỹ, từ thời Richard Nixon
(và bi kịch Watergate), trong đó có 12 cuốn được xếp hạng “bán chạy nhất toàn
quốc” (number one national best seller). Woodward giành được 2 giải Pulitzer
(một thành tích hiếm có đối với các nhà báo). Woodward nổi tiếng không phải chỉ
vì viết nhiều về chuyện cung đình, mà còn do uy tín và chất lượng. Woodwar rất
thận trọng kiểm tra lại các nguồn được trích dẫn, và trong cuốn sách mới ông đã
trích dẫn một cách gián tiếp (mà ông gọi là “deep background”).
Tuy hãy còn quá sớm để
đánh giá hệ quả của các sự kiện truyền thông nói trên, nhưng có thể hình dung
nước Mỹ đang trải qua một cuộc khủng hoảng truyền thông, gắn liền với một cuộc
khủng hoảng chính trị sâu sắc, đụng chạm những vấn đề cơ bản của thể chế chính
trị. Có lẽ đây là vấn đề toàn cầu chứ không riêng nước Mỹ, nhưng nó được bộc lộ
rõ hơn ở Mỹ. Những giá trị cơ bản của dân chủ tự do (liberal democracy) và tự
do ngôn luận (freedom of speech) đang bị thách thức. Không phải ngẫu nhiên mà
Trump tỏ ra thù địch với báo chí, thường gọi báo chí là “tin vịt” (fake news) và
gọi các nhà báo là “kẻ thù của nhân dân” (enemy of the people). Không phải chỉ
tự do ngôn luận, mà “chính trị bản sắc” (identity politics) cũng bị thách thức,
phản ánh xu hướng bảo thủ mới (neo-conservatism) và dân túy (populism).
Một
nước Mỹ bị chia rẽ
Trong bối cảnh đó, cuộc
bầu cử giữa kỳ sắp tới (11/2018) có ý nghĩa quan trọng. Thứ nhất, nó định vị
lại tâm trạng và thái độ của cử tri Mỹ đối với Trump mà họ đã bỏ phiếu ủng hộ
cách đây gần hai năm, và dự báo xu hướng chính trị hai năm tới khi cử tri Mỹ
bầu lại Tổng thống. Thứ hai, nó xác lập lại cán cân chính trị giữa hai đảng
Cộng hòa và Dân chủ trong Quốc hội. Trump dễ sa vàò một cuộc khủng hoảng chính
trị và hiến pháp, nếu phe Dân chủ chiếm được đa số, và điều tra của Robert
Mueller khẳng định sự dích líu của Trump với người Nga trong tranh cử năm 2016,
mở ra khả năng phế truất (theo “25th amendment”).
Ngày 16/8/2018, có 343 tờ
báo khắp nước Mỹ đã hưởng ứng lời kêu gọi của báo Boston Globe, cùng đăng xã
luận để phản đối “cuộc chiến tranh bẩn thỉu” (dirty war) của Trump chống lại tự
do báo chí. Tuy có rất nhiều báo tham gia, trong đó có những báo lớn như New
York Times, nhưng cũng còn nhiều báo khác không tham gia (như Wall Street
Journal). Không phải chỉ nước Mỹ bị chia rẽ mà báo chí Mỹ cũng đang bị phân
hóa. Có lẽ đó là hệ quả không định trước của bầu cử Tổng thống Mỹ cuối năm 2016
như một sự kiện chính trị chia rẽ nước Mỹ chưa từng có, làm nhiều người gọi
nước Mỹ là “the Divided States of America”.
Trong bài xã luận với
tiêu đề “Tự do báo chí cần các bạn”, báo New York Times viết rằng nếu gọi sự
thật mà mình không thích là “tin vịt” (fake news) “là nguy hiểm cho dòng chảy
của dân chủ” (dangerous to the lifeblood of democracy), và gọi báo chí là “kẻ
thù của nhân dân” là nguy hiểm cho các nhà báo. Khi gặp riêng Tổng thống Trump
(tháng 7/2018), ông AG. Sulzberger (Chủ báo New York Times) đã nói “ngôn từ của
tổng thống đang góp phần làm tăng nguy cơ đối với các nhà báo và dẫn đến bạo
lực”. Tuy Trump nổi tiếng hay nói dối,
nhưng ông cũng hay dùng những từ ngữ thô thiển để thóa mạ những người mà ông
không thích, thậm chí cả phụ nữ như Omarosa Manigault, là “hạ đẳng” (lowlife)
và “đồ chó” (dog).
Theo kết quả khảo sát dư
luận của đại học Quinnipiac University, trong khi “51% cử tri đảng Cộng hòa cho
rằng báo chí là “kẻ thù của nhân dân”, thì 65% cử chi nói chung cho rằng báo
chí là một phần quan trọng của nền dân chủ. Một khảo sát khác trong tháng này
cũng có kết quả tương tự: 48% cử tri đảng Cộng hòa cho rằng báo chí là “kẻ thù
của nhân dân Mỹ”, và 28% bất đồng. Trong khi đó, 23% những người ủng hộ đảng
Cộng hòa (và 1/8 người Mỹ nói chung) cho rằng Trump nên đóng cửa CNN,
Washington Post và New York Times.
Đổi
mới tư duy và hệ quy chiếu
Đó là vắn tắt mấy nét
(hơi tiêu cực) về bức tranh chính trị nội bộ của Mỹ vào thời điểm này, trong
khi bức tranh kinh tế và chính trị quốc tế của chính quyền Trump có vẻ sáng sủa
và tích cực hơn, nhất là về triển vọng chiến tranh thương mại Mỹ-Trung, đang
bước vào giai đoạn hai (từ 6/9/2018). Thành tích đối ngoại của Trump (với Triều
Tiên chẳng hạn) cũng không thể phủ nhận. Trong số các tổng thống Mỹ còn sống,
chỉ có Trump dám đối đầu với Trung Quốc. Nhưng các thực tế đó có thể bị hình
ảnh tiêu cực trong nước làm lu mờ và méo mó. Đó là những khác biệt dễ nhầm lẫn,
cũng như tính cách bất thường, khó đoán của Trump.
Vì vậy, đánh giá về Trump
là một việc khó, dễ ngộ nhận và nhầm lẫn. Gần đây, quan điểm đánh giá về Trump
có sự phân hóa theo hướng hơi vũ đoán (như “thầy bói sờ voi”). Một số người chỉ
trích Trump thậm tệ (bất chấp những thành tích khó phủ nhận), trong khi một số
khác khen ông hết lời (bất chấp những bê bối cũng khó phủ nhận). Không phải chỉ
có Trump (hay Trumpism) có vấn đề, mà cả những người ủng hộ hay phản đối Trump
cũng vậy, vì thế giới này không chỉ có sự thật, mà còn nửa sự thật
(half-truth), hay “hậu sự thật” (post-truth).
Muốn hiểu và lý giải được
những biến đổi chính trị đang diễn ra tại Mỹ và trên thế giới với những ẩn số
và biến số khó lường (giống như biến đổi khí hậu hiện nay), người ta cần đổi
mới tư duy và hệ quy chiếu (paradigm). Nếu muốn hướng tới thế giới công nghệ
4.0 mà vẫn bám giữ vào hằng số tư tưởng 0.4 của thế giới cũ, người ta sẽ tiếp
tục mắc kẹt vào tư duy nguyên trạng (status quo mindset) của trật tự thế giới
cũ (như tù binh của quá khứ), và lạc trong ma trận của trật tự thế giới mới vẫn
chưa định hình, nên càng dễ ngộ nhận và nhầm lẫn. Không chỉ Mỹ và trật tự thế
giới đang bị đảo điên, mà tư duy con người đang bị khủng hoảng.
NQD.
11/9/2018