Thứ Tư, 2 tháng 1, 2019


Toàn văn bài viết của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhân dịp năm mới 2019
 
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc | 
Toàn văn bài viết của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhân dịp năm mới 2019
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc

Báo Trí Thức trẻ trân trọng đăng toàn văn bài viết của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc với tiêu đề: “Nỗ lực đổi mới, sáng tạo, quyết liệt hành động, phấn đấu thực hiện thắng lợi toàn diện kế hoạch năm 2019, tạo nền tảng cho phát triển nhanh và bền vững”.

 
Năm 2018 vừa khép lại với niềm phấn khởi, tự hào bởi những thành tựu to lớn, toàn diện mà đất nước đã đạt được, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức từ bên ngoài và còn những hạn chế, bất cập trong nội tại.

Phương châm hành động "Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, hiệu quả" của Chính phủ đã được sự đồng thuận cao và hưởng ứng mạnh mẽ trong cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân và Nhân dân cả nước. Thấm nhuần sâu sắc chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng "không được ngủ quên trên vòng nguyệt quế" tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc triển khai nhiệm vụ năm 2018, các cấp, các ngành đã triển khai thực hiện đồng bộ, quyết liệt các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đề ra trong các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, đặc biệt là Nghị quyết 01 của Chính phủ. 
Tập trung hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy khởi nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; cắt giảm, đơn giản hóa trên 1/2 điều kiện kinh doanh và trên 2/3 danh mục hàng hóa, thủ tục kiểm tra chuyên ngành. Tổ chức nhiều hội nghị quy mô toàn quốc về thúc đẩy tăng trưởng, xuất khẩu, đầu tư, logistics, tháo gỡ vướng mắc trong đầu tư xây dựng, phát triển kinh tế ngành, vùng, khuyến khích đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp, phòng chống thiên tai, phát triển bền vững thích ứng biến đổi khí hậu, đổi mới doanh nghiệp nhà nước (DNNN), phát triển công nghiệp hỗ trợ..., góp phần tạo động lực cho tăng trưởng. 
Chúng ta đã làm rất tốt vai trò nước chủ nhà, tổ chức thành công Hội nghị WEF ASEAN với chủ đề "ASEAN 4.0: Tinh thần doanh nghiệp và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư". Nhiều địa phương chủ động tổ chức các Hội nghị, diễn đàn xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch…, phát huy tiềm năng, thế mạnh, quyết tâm tạo chuyển biến rõ nét trong phát triển kinh tế - xã hội (KTXH) trên địa bàn.
Đặc biệt, các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ, các thành viên Chính phủ, lãnh đạo các cơ quan của Đảng, Quốc hội, lãnh đạo các địa phương đã luôn sâu sát thực tế, nắm chắc tình hình, chỉ đạo kịp thời những vấn đề quan trọng; không để bị động, bất ngờ; thường xuyên đối thoại, lắng nghe, giải quyết kiến nghị, tháo gỡ khó khăn của cộng đồng doanh nghiệp và người dân.
Tất cả những yếu tố trên, cùng với sự nỗ lực to lớn và phấn đấu không ngừng của cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân và nhân dân cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tạo nên kết quả vượt bậc, toàn diện trên các lĩnh vực của năm 2018. 
Kết quả này càng có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh quốc tế, khu vực có những biến động phức tạp, khó lường, nhất là chiến tranh thương mại, biến động tỷ giá, lãi suất, giá dầu thô... Nhiều tổ chức quốc tế nhận định, Việt Nam đã và đang có những bước đi đúng đắn, nỗ lực vượt qua khó khăn thách thức, để vươn lên tầm khu vực, toàn cầu. 
Lần đầu tiên kể từ năm 2008, tăng trưởng kinh tế (GDP) đạt 7,08%, trong nhóm các nước tăng trưởng cao nhất trong khu vực và trên thế giới. Quy mô GDP tăng mạnh, đạt trên 5,5 triệu tỷ đồng, bình quân đầu người đạt 2.587 USD.
Điều đáng mừng là tăng trưởng cao trong khi nền tảng kinh tế vĩ mô được duy trì tốt và ngày càng được củng cố. Lạm phát được kiểm soát, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) chỉ ở mức 3,54%, các cân đối lớn được đảm bảo, thể hiện các chính sách vĩ mô được điều hành rất linh hoạt, hiệu quả.
Động lực tăng trưởng mạnh mẽ đến từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với mức tăng 12,98%, từ khu vực nông nghiệp với mức tăng 3,76%, từ tổng cầu tăng mạnh với tổng mức bán lẻ tăng 11,7%; mà không còn phụ thuộc vào tín dụng và khai khoáng như trước đây. 
Điều đặc biệt quan trọng là, không chỉ về số lượng, chất lượng tăng trưởng được cải thiện rõ nét. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) năm 2018 đạt 43,5%, bình quân 3 năm 2016-2018 đạt 42,18%, cao hơn nhiều giai đoạn 2011-2015 (33,58%); hệ số hiệu quả sử dụng vốn ICOR còn khoảng 5,97; năng suất lao động tăng 5,93%, cao hơn nhiều so với giai đoạn trước.
Chúng ta rất phấn khởi với nhiều chỉ tiêu kinh tế quan trọng thiết lập những kỷ lục mới; trong đó xuất khẩu đạt gần 245 tỷ USD; tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt trên 482 tỷ USD; xuất siêu 7,2 tỷ USD; dự trữ ngoại hối đạt trên 60 tỷ USD. Xuất khẩu khu vực kinh tế trong nước tăng 15,9%, cao hơn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (12,9%). 
Hàng hóa mang thương hiệu Việt đã có tại siêu thị của hầu hết các quốc gia trên thế giới với 5 mặt hàng có kim ngạch trên 10 tỷ USD, 29 mặt hàng có kim ngạch trên 1 tỷ USD. Lần đầu tiên, kim ngạch xuất khẩu nông sản đạt trên 40 tỷ USD. Chúng ta đã có quan hệ thương mại với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Vốn đầu tư ngoài nhà nước tăng nhanh 18,5%, chiếm đến 43,3% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, chứng tỏ Nghị quyết Trung ương về phát triển kinh tế tư nhân đã và đang đi vào cuộc sống; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện đạt 19,1 tỷ USD, tăng 9,1%; góp phần quan trọng cùng vốn đầu tư của Nhà nước để tạo ra năng lực sản xuất mới cho nền kinh tế. 
Chúng ta được đánh giá làmột trong những điểm đến đầu tư hấp dẫn nhất khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Việt Nam cũng được bình chọn là điểm đến du lịch hàng đầu châu Á, thu hút trên 15,5 triệu lượt du khách quốc tế trong năm 2018, tăng 19,9%. Đây là một dấu ấn quan trọng, khẳng định thương hiệu và nâng tầm du lịch Việt Nam, hướng đến thu hút trên 20 triệu khách vào năm 2020 và cao hơn nữa trong những năm tới.
Tiếp theo xu hướng từ đầu nhiệm kỳ, chủ trương thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và phát triển doanh nghiệp đã mang lại kết quả tích cực với trên 131 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và trên 34 nghìn doanh nghiệp hoạt động trở lại. Chúng ta tự hào có nhiều tập đoàn tư nhân đang phát triển lớn mạnh và nhiều công trình, dự án rất lớn hứa hẹn tạo ra bứt phá cho tương lai, như Cảng hàng không quốc tế Long Thành, Cao tốc Bắc Nam, Tổ hợp lọc dầu Nghi Sơn, các tổ hợp sản xuất ô-tô Trường Hải, Vinfast…
Nhiều doanh nghiệp đã vượt qua khó khăn, biến điều không thể thành có thể, vươn lên khẳng định mình, tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Có những lĩnh vực Việt Nam đã trở thành một trong những công xưởng của thế giới như: điện thoại di động, điện tử, lắp ráp ô-tô, dệt may, da giầy, gạo, tôm, cá tra...
Nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp thành công gắn với Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thu hút được sự quan tâm của nhiều quỹ đầu tư quốc tế, trong nước. Đây chính là những yếu tố tạo nên nền tảng của một nền kinh tế ứng dụng công nghệ cao và phát triển kinh tế số.
Môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện, tạo không khí phấn khởi, lạc quan trong bỏ vốn làm ăn, đầu tư kinh doanh của các doanh nghiệp, doanh nhân, nhà đầu tư. Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) đạt 56,6 điểm vào tháng 11, cao nhất trong các nước ASEAN. Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh quý I/2019 so với quý IV/2018 cho thấy 85,1% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng tốt lên và ổn định.
Môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện mạnh mẽ. Các chỉ số đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững tăng mạnh, đạt mức cao nhất từ trước đến nay; trong đó Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam năm 2018 tăng 02 bậc, xếp hạng 45/126, cao nhất từ trước đến nay, đứng thứ 2 trong các quốc gia có thu nhập trung bình thấp; Chỉ số phát triển bền vững năm 2018 tăng 11 bậc, xếp hạng 57/156 quốc gia, vùng lãnh thổ.
Cùng với phát triển kinh tế, các lĩnh vực văn hóa, xã hội, tài nguyên môi trường, biến đổi khí hậu cũng được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm. Chúng ta đã thực hiện tốt chính sách người có công; đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, nhất là đối với vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. 
Đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam đánh giá kết quả giảm nghèo của chúng ta là "thành công ở tầm thế giới". Đã tạo việc làm cho 1,65 triệu lượt người; tỷ lệ thất nghiệp thành thị giảm còn 3,1%. 
Công tác y tế, dân số được đẩy mạnh. Trên thế giới, không nhiều quốc gia ở cùng mức độ phát triển mà hơn 86% dân số tham gia bảo hiểm y tế và đạt trên 26,5 giường bệnh/vạn dân như Việt Nam. Giáo dục đào tạo tiếp tục được đổi mới, trong đó giáo dục đại học có bước chuyển mình mạnh mẽ;lần đầu tiên nước ta có 2 đại học nằm trong nhóm 1.000 trường danh tiếng nhất thế giới.
Bộ mặt đất nước, từ thành thị đến nông thôn không ngừng đổi mới và phát triển. Tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 38,4%, vượt chỉ tiêu đề ra, đã xây dựng được nhiều khu đô thị, nghỉ dưỡng hiện đại, đẳng cấp khu vực, quốc tế. Xây dựng nông thôn mới được triển khai rộng khắp, mang lại đời sống ấm no hơn cho người dân với 61 đơn vị cấp huyện và gần 43% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, vượt mục tiêu kế hoạch đề ra. 
Phong trào "toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" và công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa tiếp tục được quan tâm hơn. Phong trào thể thao quần chúng, thể thao thành tích cao tiếp tục được đẩy mạnh. Đội tuyển bóng đá Việt Nam vô địch AFF Cup 2018, Á quân bóng đá nam U23 Châu Á, mang lại niềm tự hào dân tộc cho đất nước.
Đặc biệt, nhiệm vụ xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được tập trung thực hiện. Công tác phòng, chống tham nhũng được triển khai đồng bộ, quyết liệt. Nhiều vụ án tham nhũng, trong đó có những vụ đặc biệt nghiêm trọng đã được chỉ đạo, điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, không có vùng cấm, được toàn thể các tầng lớp nhân dân đồng tình ủng hộ và góp phần củng cố niềm tin vào Đảng, Nhà nước.
Chúng ta cũng đạt nhiều kết quả quan trọng về quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Thông qua các biện pháp vừa hợp tác vừa đấu tranh, chúng ta đã kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và các lợi ích của đất nước. 
Quan hệ với các nước, đối tác ngày càng thực chất và hiệu quả hơn. Tổ chức thành công nhiều hoạt động đối ngoại của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Đối ngoại đa phương tiếp tục được đẩy mạnh và góp phần tạo dựng luật chơi trong các tổ chức quốc tế, khu vực. Đã phê chuẩn Hiệp định CPTPP, đẩy mạnh vận động ký kết Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA); tích cực đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
Bên cạnh kết quả to lớn đạt được, chúng ta cũng phải thẳng thắn nhìn nhận nền kinh tế vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, bất cập cần tập trung khắc phục trong thời gian tới. Năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp; sức chống chịu của nền kinh tế trước những biến động bên ngoài chưa cao. Mô hình tăng trưởng chuyển đổi còn chậm; các nguồn lực chưa được giải phóng tối đa; việc cơ cấu lại nhiều ngành, lĩnh vực còn chậm, lúng túng; công nghiệp hỗ trợ phát triển chưa tương xứng; chưa tham gia nhiều vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. 
Sản xuất kinh doanh trong một số lĩnh vực và hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn còn nhiều khó khăn. Môi trường đầu tư kinh doanh vẫn còn những bất cập; thủ tục hành chính có lĩnh vực còn rườm rà; kỷ luật kỷ cương nhiều nơi chưa nghiêm; vẫn còn tình trạng "trên nóng, dưới lạnh".
Đời sống của một bộ phận người dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng bị thiên tai còn nhiều khó khăn. Còn nhiều vấn đề xã hội bức xúc như: bạo lực học đường, xâm hại trẻ em, suy thoái đạo đức lối sống... Tình hình khiếu kiện đông người, trật tự an toàn xã hội ở một số địa bàn diễn biến phức tạp; còn nhiều vụ tai nạn giao thông, cháy nổ nghiêm trọng.
Nhìn chung, mặc dù còn những hạn chế, bất cập và gặp nhiều khó khăn, thách thức, tình hình đất nước năm 2018trên tất cả các lĩnh vực tiếp tục đạt nhiều kết quả quan trọng, chuyển biến rõ nét với toàn bộ 12 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch, trong đó có 9 chỉ tiêu vượt. 
Với kết quả đạt được của năm bản lề 2018, tình hình đất nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong 3 năm 2016 - 2018 phát triển đúng hướng, chuyển biến rõ nét hơn giai đoạn trước; đời sống của người dân không ngừng được cải thiện. Dự báo chúng ta sẽ đạt được các mục tiêu kế hoạch 5 năm 2016 - 2020 mà Nghị quyết Đại hội Đảng XII và Nghị quyết của Quốc hội đã đề ra.
Chúng ta có thể khẳng định, đạt được kết quả toàn diện này là nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; sự giám sát hiệu quả của Quốc hội; sự phối hợp nhịp nhàng của các cơ quan tư pháp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể; sự chỉ đạo điều hành quyết liệt của Chính phủ, các Bộ ngành, địa phương; đặc biệt là sự nỗ lực vượt bậc, sáng tạo, đổi mới, quyết tâm của nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân cả nước.
Kết quả toàn diện trên các mặt của năm 2018 đã góp phần quan trọng tạo không khí hào hứng, phấn khởi trong đầu tư, sản xuất kinh doanh, khơi dậy mạnh mẽ niềm tự hào dân tộc và niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước.
II
Chúng ta bước vào năm 2019 trong bối cảnh tình hình quốc tế, trong nước dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường với những thời cơ thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại; chiến tranh thương mại, biến động tỷ giá, lãi suất, rủi ro trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế gia tăng. Thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh ngày càng nặng nề. Khoa học, công nghệ phát triển nhanh và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động mạnh mẽ trên nhiều phương diện. 
Ở trong nước, kế thừa thành tựu hơn 30 năm đổi mới và tiếp tục đà phát triển thuận lợi những năm gần đây, tiềm lực đất nước vững mạnh hơn nhiều. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn nhiều tồn tại, yếu kém và những khó khăn, thách thức lớn. Chất lượng tăng trưởng cải thiện còn chậm, chưa bền vững; năng suất lao động, năng lực cạnh tranh còn thấp. Cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực đòi hỏi nguồn lực lớn. Tiềm lực, sức cạnh tranh của khu vực kinh tế trong nước còn thấp, chưa tham gia sâu rộng vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Ứng dụng công nghệ cao ở nhiều ngành, lĩnh vực còn hạn chế. Việc tham gia các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới như CPTPP, FTA với EU là áp lực lớn mà các cấp, các ngành và khu vực kinh tế trong nước cần vượt qua để phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng, hiệu quả.
Năm 2019 là năm rất đặc biệt - Năm kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thấm nhuần tư tưởng và mong muốn của Người, chúng ta phải có tầm nhìn rộng mở, có khát vọng vươn lên mạnh mẽ, phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nỗ lực phấn đấu xây dựng đất nước "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn" như mong ước của Người và cũng là ước mơ của triệu, triệu người dân Việt Nam. 
Nhiệm vụ đặt ra là rất nặng nề, đòi hỏi cả hệ thống chính trị, toàn dân, toàn quân ta, trực tiếp là các Bộ, ngành, địa phương cùng cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân phải nỗ lực cao hơn, mang trong mình nhiều hơn khát vọng, niềm tự hào dân tộc để cùng nhau đưa đất nước ta vươn lên mạnh mẽ hơn nữa. Các cấp, các ngành cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, năng động sáng tạo; mỗi cán bộ, công chức, viên chức trên mọi cương vị công tác, từ nhân viên đến lãnh đạo các phòng, ban, vụ, cục, tổng cục đến Bộ trưởng, Tư lệnh ngành, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp chính quyền địa phương phải nêu cao tinh thần đoàn kết, gương mẫu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, từ lời nói đến hành động, nỗ lực phấn đấu cao nhất để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch phát triển KTXH năm 2019 và 5 năm 2016 - 2020.
Chính phủ vừa tổ chức Hội nghị trực tuyến với các địa phương trên toàn quốc để triển khai Kết luận của Trung ương, Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển KTXH và dự toán NSNN năm 2019.
Đây là năm thứ hai, đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước và nhiều đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham dự Hội nghị, thể hiện sự quan tâm đặc biệt, sự ủng hộ, hỗ trợ, động viên và cũng là niềm vinh dự to lớn đối với Chính phủ, các Bộ ngành, địa phương. 
Đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu quan trọng, định hướng chỉ đạo sâu sắc và gợi mở tầm nhìn phát triển trên nhiều lĩnh vực để tập thể Chính phủ, từng thành viên Chính phủ, các Bộ ngành, địa phương nghiêm túc lĩnh hội, quán triệt và triển khai đầy đủ bằng những hành động cụ thể, thiết thực.
Chúng ta xác định rõ năm 2019 là năm tăng tốc, bứt phá trên các lĩnh vực, phấn đấu thực hiện đạt kết quả cao nhất như đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đã chỉ đạo. Với Phương châm hành động "Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, hiệu quả, bứt phá", Chính phủ ban hành các Nghị quyết số 01 và 02 ngày 01/01/2019 về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển KTXH, dự toán ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2019 và tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh; trong đó một số nội dung trọng tâm chỉ đạo điều hành là:
Thứ nhất, tập trung phát triển kinh tế; chú trọng củng cố nền tảng vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn, thúc đẩy tăng trưởng. Điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và chính sách tài khóa chặt chẽ, hiệu quả, phối hợp đồng bộ hơn nữa các chính sách kinh tế vĩ mô.Nâng cao chất lượng tín dụng và tập trung cho các lĩnh vực ưu tiên. Ổn định thị trường ngoại tệ, tỷ giá, phấn đấu tăng dự trữ ngoại hối. 
Thực hiện nghiêm kỷ luật tài chính - NSNN; tập trung chống thất thu, chuyển giá; triệt để tiết kiệm chi; kiểm soát bội chi không quá 3,6% GDP. Quản lý chặt chẽ, hiệu quả hơn tài sản công, nợ công. Đẩy mạnh cơ cấu lại, tự chủ đơn vị sự nghiệp công lập gắn với thực hiện lộ trình giá thị trường dịch vụ công và khuyến khích xã hội hóa, thu hút nguồn lực ngoài nhà nước. 
Thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, theo dõi sát diễn biến tình hình để có đối sách phù hợp. Chú trọng phát triển thị trường trong nước, phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại; phát huy vai trò của các Hiệp hội ngành hàng, người tiêu dùng. Thúc đẩy phát triển mạnh mẽ thương mại điện tử và các loại thị trường, sản phẩm mới sử dụng công nghệ cao.
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh. Tập trung rà soát, khắc phục ngay các tồn tại, bất cập về thể chế, cơ chế, chính sách, tạo mọi thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp; chú trọng hoàn thiện hệ thống pháp luật để triển khai hiệu quả các FTA đã ký kết. 
Triển khai xây dựng mới và khẩn trương hoàn thành các công trình kết cấu hạ tầng để tạo động lực cho phát triển; bảo đảm chất lượng, tiến độ, khắc phục ngay những hạn chế, bất cập, phòng chống tiêu cực, thất thoát. Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là giáo dục đại học và dạy nghề, đáp ứng nhu cầu của thị trường. Phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ-một đột phá chiến lược trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư;tập trung thúc đẩy, nâng cao tỷ lệ ứng dụng công nghệ cao. Nâng cao hiệu quả cơ chế điều phối vùng; tập trung phát triển đô thị, coi đây là một động lực thúc đẩy phát triển KTXH.
Năm 2019 cần tiếp tục tạo chuyển biến mạnh mẽ trong cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư công, đẩy mạnh cơ cấu lại, thoái vốn, cổ phần hóa DNNN và cơ cấu lại các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu. Khẩn trương hoàn thiện pháp luật về đầu tư công; đẩy mạnh thực hiện, giải ngân ngay từ đầu năm. Kiểm soát, giám sát chặt chẽ DNNN; không để chậm trễ, vi phạm quy định về cổ phần hóa, thoái vốn. Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại, xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các tổ chức tín dụng yếu kém; tăng cường phòng chống tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng. Rà soát, có các giải pháp cụ thể thúc đẩy phát triển các ngành, lĩnh vực được xác định là động lực tăng trưởng như: công nghiệp chế biến, chế tạo, nông nghiệp công nghệ cao, công nghệ thông tin, du lịch, dịch vụ và phát triển đô thị... 
Chú trọng phát triển hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Tiếp tục đẩy mạnh phát triển khu vực kinh tế tư nhân theo tinh thần Nghị quyết Trung ương với những giải pháp cụ thể về: huy động vốn, tín dụng, đất đai, nguồn nhân lực, thông tin thị trường... và thúc đẩy liên kết với khu vực FDI và DNNN trong phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ, ứng dụng công nghệ cao, tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị. Tập trung thực hiện quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp nâng hạng môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh, chú trọng các chỉ số đang xếp hạng thấp như: bảo vệ nhà đầu tư, nộp thuế, thương mại qua biên giới, giải quyết phá sản… gắn với Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Thứ hai, phát triển văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân. Các cấp, các ngành tiếp tục thực hiện tốt các chính sách người có công, bảo trợ xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, tạo việc làm, giảm nghèo bền vững theo hướng "không để ai ở lại phía sau". Có cơ chế đẩy mạnh huy động nguồn lực ngoài NSNN trong thực hiện các chính sách xã hội, các Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới.
Tập trung chuẩn bị, triển khai hiệu quả các Nghị quyết Trung ương về cải cách chính sách tiền lương, chính sách bảo hiểm xã hội và công tác y tế, dân số trong tình hình mới. Tiếp tục giảm quá tải bệnh viện, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh; tập trung xây dựng hệ thống thông tin y tế, chống lạm dụng bảo hiểm y tế; phát triển công nghiệp dược, y học cổ truyền. Chú trọng bảo đảm vệ sinh, an ninh, an toàn trường học, chống xâm hại trẻ em, bạo lực học đường; không để xảy ra sai sót trong thi cử. Thực hiện hiệu quả các chính sách phát triển giáo dục đào tạo cho vùng khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số và đối tượng chính sách.
Tăng cường công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc. Nâng cao hiệu quả các thiết chế văn hoá; thực hiện tốt Cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh" và phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" và các chính sách dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo. 
Xây dựng và tổ chức hiệu quả Đề án 50 năm thực hiện di chúc Hồ Chủ tịch. Phát triển mạnh thể dục, thể thao. Đẩy mạnh công tác phòng, chống tệ nạn xã hội, phòng chống bạo lực gia đình, học đường, bệnh viện, xâm hại trẻ em,... Quan tâm chăm sóc người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em, thanh thiếu niên, phụ nữ.
Thứ ba, tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về đất đai.Chấn chỉnh, xử lý nghiêm các vi phạm trong quản lý, sử dụng đất đai; khai thác tài nguyên, khoáng sản, đá, cát, sỏi trái phép. Phòng, chống sạt lở bờ sông, suối, ven biển, kè sông, kè suối biên giới ở những vị trí xung yếu. Hợp tác chặt chẽ trong chia sẻ nguồn nước xuyên biên giới và quản lý tài nguyên, môi trường biển.Tập trung ngăn chặn, xử lý ô nhiễm môi trường. 
Có giải pháp căn cơ xử lý rác thải ở nông thôn, địa bàn khu dân cư tập trung và ô nhiễm các lưu vực sông lớn. Nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo thiên tai. Thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp ứng phó biến đổi khí hậu; đẩy nhanh các dự án phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu, trước hết là các vùng đồng bằng sông Cửu Long, ven biển Trung Bộ, Tây Nguyên và miền núi phía Bắc.
Thứ tư, đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử; tăng cường công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Thực hiện nghiêm quy định về đổi mới, sắp xếp lại tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ công chức, viên chức. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với trách nhiệm người đứng đầu và tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát thực hiện. Đơn giản hóa, cắt giảm thủ tục hành chính thực chất, tạo điều kiện tốt hơn, thuận lợi hơn, tiết giảm chi phí và thời gian cho người dân, doanh nghiệp. 
Đẩy nhanh tiến trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án kinh tế, nhất là việc xử lý nợ, tài sản của các bên liên quan. Tập trung chỉ đạo giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tham nhũng kéo dài, phức tạp. Thực hiện nghiêm các quy định về phòng, chống tham nhũng; trong đó chú trọng tạo môi trường không tham nhũng, đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt và công khai minh bạch trong hoạt động công vụ, công tác cán bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, doanh nhân làm ăn chân chính và cán bộ, công chức, viên chức yên tâm cống hiến, đóng góp cho đất nước.
Đề cao trách nhiệm của từng cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, không vì tư duy nhiệm kỳ hay áp lực của công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng mà né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, làm việc cầm chừng, thiếu trách nhiệm. Các Bộ, ngành, địa phương chú trọng công tác xây dựng Đảng, thực hiện nghiêm Nghị quyết Trung ương 4gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Quán triệt sâu rộng và thực hiện nghiêm túc Quy định của Trung ương về trách nhiệm nêu gương.
Thứ năm, tiếp tục củng cố quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh công tác đối ngoại. Tiếp tục xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia theo đúng lời dạy của Bác Hồ kính yêu "các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh. 
Chủ động nắm chắc tình hình, kịp thời đấu tranh ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước. Quyết liệt trấn áp tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, hoạt động theo kiểu "xã hội đen", "tín dụng đen"; tội phạm ma túy, cướp giật, công nghệ cao,...; bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, phòng chống cháy nổ. 
Chủ động triển khai hiệu quả các hoạt động đối ngoại cấp cao. Tích cực tham gia, đóng góp có trách nhiệm và nâng cao hơn nữa vai trò của Việt Nam trong các tổ chức, diễn đàn đa phương. Sớm ban hành và triển khai Kế hoạch cụ thể thực hiện hiệu quả Hiệp định CPTPP; đẩy mạnh vận động sớm ký kết Hiệp định EVFTA. Làm tốt công tác bảo hộ công dân. Chủ động phòng ngừa, nâng cao năng lực giải quyết tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế.
Thứ sáu, đẩy mạnh thông tin truyền thông, tạo đồng thuận xã hội. Thực hiện nghiêm quy chế phát ngôn, tăng cường kỷ luật báo chí; các Bộ ngành, địa phương chủ động tổ chức các chương trình truyền thông sâu rộng, cung cấp thông tin KTXH, các chủ trương, cơ chế, chính sách, chỉ đạo điều hành và các vấn đề dư luận quan tâm. Xử lý nghiêm các trường hợp lợi dụng quyền tự do ngôn luận, vi phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Tiếp tục làm tốt công tác dân vận, phối hợp hiệu quả với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể quần chúng, góp phần tạo đồng thuận xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy niềm tự hào và khát vọng dân tộc, đưa đất nước ta vững bước trên con đường phát triển nhanh và bền vững, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
III
Các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các chủ trương, cơ chế, chính sách, pháp luật có đi vào thực tiễn hay không,một phần quan trọng phụ thuộc vào công tác tổ chức triển khai thực hiện của các cấp, các ngành. Từng Bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị phải khẩn trương ban hành ngay các chương trình, kế hoạch công tác năm 2019 với mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp, người chịu trách nhiệm, lộ trình cụ thể và tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả. 
Người đứng đầu Bộ ngành, địa phương phải theo sát thực tiễn, chỉ đạo điều hành quyết liệt ngay từ ngày đầu năm; tăng cường đôn đốc, kiểm tra, giám sát thực hiện vàthực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo tháng, quý, năm theo quy định.
Phát huy kết quả đạt được của năm 2018, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng thường xuyên, sâu sát của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đặc biệt là của các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước; sự vào cuộc của cả hệ thống chính trịvà sự nỗ lực, năng động, sáng tạo của cộng đồng doanh nghiệp, các tầng lớp nhân dân; toàn bộ hệ thống hành chính nhà nước, từ Chính phủ đến các Bộ ngành, địa phương sẽ tiếp tục đoàn kết, chung sức đồng lòng, phối hợp chặt chẽ, bằng những hành động cụ thể, thiết thực, nỗ lực phấn đấu với quyết tâm cao nhất để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ năm 2019 đề ra theo Kết luận của Trung ương, Nghị quyết của Quốc hội, góp phần thực hiện thành công Kế hoạch 5 năm 2016-2020 và Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng, tạo tiền đề vững chắc và điều kiện thuận lợi cho đất nước phát triển nhanh và bền vững trong giai đoạn tới./.
theo Trí Thức Trẻ

Thứ Năm, 27 tháng 12, 2018

Sống trong thời đa diện

(AN NINH THẾ GIỚI)
Chưa bao giờ chúng ta sống trong một môi trường xã hội đa diện như hiện nay, nơi mà cái tốt và cái xấu, cái thật và cái giả, cái dân chủ và cái dân túy trong rất nhiều trường hợp cứ hòa trộn vào nhau một cách khôn lường. 

Chính vì khôn lường nên không tránh khỏi những nhận thức sai, những phản ứng sai, những cơn "lên đồng tập thể" sai, kéo lùi sự phát triển của dân tộc.
Vậy thì vai trò của người trí thức nói riêng và người dân nói chung cần phải được thể hiện như thế nào để những sai số như thế là cực tiểu? Đấy là chủ đề mà chúng tôi đặt ra với tiến sĩ luật học Phạm Duy Nghĩa và chuyên gia truyền thông Lê Quốc Vinh - những nhà quan sát, nghiên cứu xã hội ở các góc độ rất khác nhau.

Dễ bị dắt mũi nếu mặt bằng dân trí thấp
- Nhà báo Phan Đăng: Thưa hai ông, trong một bài viết vào tháng 5 năm 2018, đồng chí Võ Văn Thưởng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương đã cảnh báo những dấu hiệu nguy hiểm của chủ nghĩa dân túy trong đời sống chính trị một quốc gia. Theo bài viết này thì không chỉ ở châu Âu hay châu Mỹ mà ở cả một châu lục "bình lặng" như châu Á thì chủ nghĩa dân túy đã phát tác và có nhiều vị lãnh đạo đạt được đỉnh cao quyền lực nhờ thực hiện triệt để chủ nghĩa này. Cũng theo ông Võ Văn Thưởng thì biểu hiện của chủ nghĩa dân túy ở Việt Nam không phải là không có. Quan điểm riêng của hai ông như thế nào?

- TS Phạm Duy Nghĩa (PDN): Ai cũng muốn đất nước được quản lý một cách dân chủ, được điều hành bởi những người thực tài. Muốn là một chuyện, song thực tế lại là chuyện khác. Nếu chính quyền thực sự được xác lập qua bầu cử thì việc gom từng lá phiếu để có đa số trở thành cực kỳ quan trọng.
Từng cử tri, tùy lí trí, tình cảm, mối quan tâm, họ sẽ quyết định có đi bầu cử hay không và nếu có thì bỏ phiếu cho ai. Nhóm người nào phản ánh đúng được quan tâm của cử tri, chiếm được trái tim của họ, có chiến lược tranh cử phù hợp, sẽ hy vọng dẫn dắt được cuộc đua.

Trong bối cảnh hiện nay, thực tài, kỹ trị là đáng mong ước, song chưa đủ và chưa chắc đã là tiền đề để thắng cử. Chủ nghĩa bảo hộ, cực hữu, bài ngoại, chủ nghĩa dân túy, những liên kết xã hội tưởng chừng lỏng lẻo đã mau chóng trỗi dậy, tạo nên sức mạnh, đôi khi thách thức cả các thể chế chính trị có truyền thống, như chúng ta có thể thấy ở châu Âu, châu Mỹ, hay ở cả châu Á.
Việt Nam có chế độ chính trị do một đảng lãnh đạo toàn diện, các sinh hoạt chính trị có những đặc thù riêng, song để vừa lòng, chiều lòng dư luận xã hội, cũng có thể xuất hiện dấu hiệu của chủ nghĩa dân túy, cổ vũ cho những lựa chọn của đám đông, đôi khi chỉ vì cảm tính mà thiếu phân tích khách quan.

Ví dụ, mấy năm trước có trào lưu giành lại vỉa hè cho người đi bộ, lan dần từ Nam ra Bắc, nhiều đô thị hăm hở ra quân, song rất thiếu các thảo luận có chiều sâu, ví dụ liệu vỉa hè có thực sự chỉ là của người đi bộ, hay đó là một không gian công cộng cho sinh hoạt giao thông, văn hóa, kinh tế của cộng đồng. 
Nếu chỉ vì sự reo hò trên mạng, người ta dễ ban hành các chính sách thiếu chiều sâu, khó tạo ra sự đồng thuận đa chiều về lợi ích và vì thế các chính sách đó thường khó được thực thi một cách có hiệu quả lâu dài.
Chuyên gia Lê Quốc Vinh.

- Chuyên gia Lê Quốc Vinh (LQV): Thực ra, phải nói thẳng là chủ nghĩa dân túy không những có biểu hiện rất rõ rệt ở Việt Nam mà còn phát triển khá mạnh mẽ, cả trên chính trường và mạng xã hội, với cả các quan chức lãnh đạo lẫn nhiều thành phần tranh thủ sự nổi tiếng trên không gian ảo. Không khó để người ta nhận ra những nhu cầu, mong muốn hết sức đơn giản của quần chúng, dễ đưa ra những tuyên ngôn, hành động chiều theo ý thích của đám đông, để mưu cầu sự ủng hộ hoặc đơn giản chỉ để có tiếng nói trong cộng đồng.
Sự nguy hiểm của chủ nghĩa dân túy là rất khó nhận diện ra nó. Một người lãnh đạo theo chủ nghĩa dân túy lại thường được quần chúng tung hô, coi như người anh hùng của họ. Một người có khả năng lôi kéo hàng vạn người theo dõi trên mạng xã hội bằng kỹ xảo tuyên ngôn hợp ý số đông. Phần lớn, công chúng chỉ nhìn thấy ở những người này các phát ngôn, hành vi phù hợp với ý muốn của họ nên rất dễ tin tưởng mù quáng và chấp nhận. 

- Ở những xã hội mà chủ nghĩa dân túy xuất hiện từ lâu, con người ta ít nhiều cũng có kinh nghiệm đối diện và nhận diện nó. Còn với Việt Nam, có lẽ phần lớn người dân chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm trong vấn đề này chăng?

- PDN: Nếu nhìn lại Brexit, cuộc bầu cử 2016 ở Hoa Kỳ và sự trỗi dậy của các đảng cực hữu gần đây ở châu Âu, khó có thể kết luận dân tộc nào đủ trưởng thành để không bị cám dỗ bởi chủ nghĩa dân túy. Hiển nhiên, nếu dân trí được nâng cao, nếu phản biện xã hội diễn ra thường xuyên, nếu các đảng cầm quyền chịu sức ép đổi mới liên tục, son phấn của chủ nghĩa dân túy sẽ dễ bị phơi bày hơn.

- LQV: Tôi không nghĩ rằng trình độ xã hội và kinh nghiệm có khả năng phát hiện và ngăn chặn chủ nghĩa dân túy. Ngay cả các nước tiên tiến như Hoa Kỳ hay Anh quốc chả phải cũng đang bị chi phối bởi những nhà lãnh đạo dân túy đó sao? Tâm lý bầy đàn là cái nôi nuôi dưỡng chủ nghĩa dân túy. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, sự non nớt về kinh nghiệm kiểm tra chéo thông tin, tỉnh táo thanh lọc thông tin, khiến người Việt Nam chúng ta dễ sa vào cái bẫy dân túy.
Một đặc điểm khác của người Việt Nam là sự hời hợt, thiếu tư duy phản biện, thiếu năng lực kiên nhẫn đi tìm hiểu sự thật, khiến chúng ta trở thành một môi trường rất tốt để nuôi dưỡng chủ nghĩa dân túy. Đặc biệt, môi trường mạng xã hội Facebook là một minh chứng rất rõ cho xu thế này.

- Khi sự dân túy không được nhận diện thì chúng ta rất dễ hiểu sai, nhìn sai, nếu không muốn nói thẳng ra là rất dễ bị dắt mũi. Vậy đại bộ phận người dân nói chung cần phải tránh việc "bị dắt mũi" này như thế nào?

- PDN: Con người ta thường hành động theo sự mách bảo của dạ dày, khối óc, hoặc trái tim. Tâm vững vàng trong một thân thể khỏe mạnh, lý trí đủ sáng suốt để tự do là chính mình chứ không a dua theo đám đông, đó chính là chìa khóa để từng cá nhân không bị ai dắt mũi bao giờ.

- LQV: Chúng ta cần nhiều hơn, rất nhiều, các diễn đàn phản biện xã hội. Một mặt, tạo ra các diễn đàn mở, tranh biện xã hội. Mặt khác, xây dựng và nuôi dưỡng nhóm tinh hoa đủ khả năng tác động nhận thức của từng nhóm cộng đồng, thực tâm hành động vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Họ chính là lực lượng cảnh báo, đánh thức quần chúng bị ru ngủ, bị dẫn dụ, bị dắt mũi. Tuy nhiên, đây là nhiệm vụ rất khó. Vì bản thân mặt bằng xã hội của chúng ta còn thấp so với các quốc gia từng có cơ hội trải nghiệm và tự điều chỉnh. Sẽ là một con đường khá gian nan.

- Thời đại hiện nay chứng kiến sự phát triển cực độ của mạng xã hội, đặc biệt là Facebook. Ai cũng có thể viết một cái gì đó lên Facebook của mình và sức lan tỏa của Facebook trong nhiều trường hợp còn khủng khiếp hơn cả báo in, báo mạng hay truyền hình. Để đăng một tin trên báo chẳng hạn, phóng viên chúng tôi phải viết bài, trưởng ban phải duyệt, thư ký tòa soạn thẩm định tiếp và tổng biên tập duyệt lần cuối. Qua một hệ thống nhiều người cùng đọc, cùng duyệt một bản thảo như vậy, yếu tố sai sót sẽ được giảm đến tối thiểu, tất nhiên không tính những trường hợp cố tình sai sót vì những động cơ không trong sáng. Nhưng, với Facebook thì khác, nghĩ một cái là có thể viết ngay rồi đăng tải ngay. Thế cho nên, thế giới Facebook chứng kiến rất nhiều thông tin sai sự thật, thông tin bị bóp méo, cắt xén, thậm chí là thông tin bịa đặt, vu khống.. Nhưng, vì "kỹ nghệ làm tin" của một bộ phận không nhỏ những nhà "dân túy Facebook" là quá xuất sắc mà những luồng tin kiểu này vẫn dễ dàng chui vào đầu óc của đông đảo dư luận, tạo nên những cơn sóng mạng khủng khiếp. Hai ông đánh giá như thế nào về hiện tượng này?

- PDN: Phải thành thật thú nhận tôi không là tín đồ của Facebook, tôi tìm tin tức ở nơi tôi muốn, tôi chia sẻ thông tin và liên kết xã hội theo kiểu cổ truyền, đủ để tôi không bị lạc hậu. Tuy nhiên, ngày nay để sống một cách thuận tiện như mua sắm, kinh doanh, giáo dục, hoạt động chính trị..., người ta cần dựa vào các mạng xã hội hiện đại, tương tác nhanh chóng như Facebook, Viber, Zalo. Chính quyền cũng như người dân, ai cũng nên chủ động khai thác và sử dụng các tiện ích này có lợi cho mình. Song, hãy nhớ, đừng biến mình thành công cụ của chúng.
Để làm rõ điều này, xin hãy kiểm tra điện thoại của bạn, bao nhiêu thời gian trong ngày bạn đã lang thang giữa vô tận thông tin trên mạng. Nếu mất quá nhiều thời gian lướt mạng và vì thế mà lười nhác vận động, có thể bạn đã bị nhiễm chứng nghiện mạng xã hội. Nếu quá bị lôi cuốn vào các đám đông tranh luận vô bổ, không biết chừng bạn đã trở thành công cụ của mạng. Hãy giành lại sự tự do, mạng phải là công cụ để bạn sống thanh thản hơn, hạnh phúc hơn, có ích hơn cho cộng đồng.

- LQV: Tôi thấy thú vị với cái khái niệm “dân túy Facebook”. Đây là hiện tượng có thực và đã đến lúc người dân phải được cảnh báo một cách nghiêm túc. Có thể có những tài khoản lập ra với những mục đích chính trị nào đó nhưng đa phần, tôi nghĩ các nhà dân túy trên mạng xã hội Facebook là những người bị chính cám dỗ của sự nổi tiếng làm cho mê hoặc. Có những lúc tôi cảm tưởng như họ tuyệt đối tin vào những thông tin, lý luận mà họ phát ngôn, cho dù thực tế chứng minh ngược lại.

Phải khẳng định là, sự phát minh ra Facebook và các mạng xã hội là một điều tuyệt vời, đáp ứng đúng nhu cầu thông tin và cởi mở ngôn luận nhưng hệ luỵ của nó cũng không nhỏ. Như anh đã nói, chẳng ai kiểm soát các thông tin được đưa lên mạng xã hội, không có hệ thống lọc, kiểm tra sự thật, đối chứng thông tin.
Vậy nên, tính xác tín của mạng xã hội là cực thấp. Cái chết là, người dân dễ tin vào những gì họ đọc được trên mạng, bởi họ tin đó là thông tin từ bạn bè, người thân ngoài đời thực. Chính họ rồi trở thành nguồn phát tán, thúc đẩy thông tin giả, thông tin thiếu chính xác lan truyền.


Tiến sỹ Phạm Duy Nghĩa 
Không thể bắt mỗi cư dân mạng là một nhà thông thái

- Tin trên Facebook là tin ảo nhưng nhận thức mà nó tạo ra trong bộ não mỗi người lại là nhận thức thật. Chính vì vậy những "phù thủy Facebook" hoàn toàn có thể dựng tin, định hướng dư luận theo cách mà mình muốn. Vậy thì mỗi người dùng Facebook cần phải trang bị một năng lực nhận diện như thế nào mới không bị đánh lừa?

- PDN: Là người, ai cũng tò mò, muốn hiểu biết, muốn khám phá thế giới xung quanh. Song, nên có những ranh giới cần dừng lại, ví dụ tôn trọng sự riêng tư của người khác, kinh tởm các hành vi bạo lực, tẩy chay sự gian dối. Từng cá thể dừng lại trước những điều mà mình cho là xấu xa thì mặt tốt của mạng xã hội sẽ được khuếch tán và mặt tiêu cực của nó sẽ bớt dần xấu xí.
- LQV: Tôi lại nghĩ, nếu đòi hỏi mỗi người dân, mỗi cư dân mạng phải là một người đọc thông thái thì e rằng sách vở. Chúng ta hãy bắt đầu từ chính báo chí, những người được đào tạo và có khả năng kiểm chứng thông tin, có nguyên tắc nghề nghiệp về kiểm tra chéo và độc lập đưa tin, có nguyên tắc đa dạng nguồn tin.

Nếu báo chí chủ động đóng vai trò cân bằng lợi ích, ngăn chặn sự phát tán của tin giả, tin sai, tin thiếu chính xác, thì chí ít chúng ta cũng ngăn chặn được sự lây lan mất kiểm soát. Đáng buồn là chính báo chí nhiều lúc vẫn chưa làm tốt vai trò này, thậm chí còn tham gia vào quá trình lan truyền tin giả.

Bên cạnh đó, phải có nhiều kênh thông tin chính danh, những kênh thông tin của tập hợp những người có chính kiến, có thái độ và có tâm huyết với việc điều chỉnh định hướng lệch lạc của thông tin bịa đặt hoặc giả mạo. Bằng công cụ kỹ thuật và bằng sự hỗ trợ tự nhiên mà các kênh này sẽ có cơ hội phản biện các luồng thông tin giả, tin kém chất lượng.

Như thế, mỗi Facebooker sẽ có những nguồn tin xác tín để kiểm chứng, sẽ dần có thói quen kiểm tra chéo các thông tin đọc được hoặc đang được cố ý phát tán trên mạng. Tôi không quá lạc quan vào khả năng thay đổi lớn nhưng chắc chắn số lượng cư dân mạng thông thái sẽ nhiều dần lên, sẽ khó bị đánh lừa hơn.
- Xã hội Việt Nam trước năm 1975 cơ bản là xã hội thời chiến. Vì là thời chiến, đối diện với cái sống cái chết nên mọi giá trị thực - giả tự nó đã sáng quắc lên. Xã hội Việt Nam trước năm 1986 là xã hội bao cấp. Đã đành xã hội bao cấp dẫn đến thiếu ăn, thiếu mặc nhưng những sự trắng - đen, thực - giả trong xã hội đó là rất rõ ràng. Còn xã hội sau 1986 đến nay lại là một xã hội với một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo ông kinh tế thị trường có phải cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng thật giả - giả thật hay không? Và có phải chúng ta vẫn chưa đủ kinh nghiệm nhận thức trong một xã hội khôn lường như vậy hay không?

- PDN: Tôi đồng ý là kinh tế thị trường có khuyết tật cố hữu, song nó không phải là nguyên nhân cho tất cả rắc rối hiện nay.

- LQV: Không nên đổ lỗi cho kinh tế thị trường, mặc dù kinh tế thị trường có những đặc tính bất cập. Sự phát triển của công nghệ thông tin, sự phát triển của mô hình truyền thông tương tác đa chiều, đa nền tảng là cái nôi của truyền thông cá nhân.
Truyền thông cá nhân cho người ta cơ hội trở thành những thế lực truyền thông phi chính thức, nếu biết vận dụng những quy luật tâm lý, nắm bắt thông tin và có một năng lực truyền thông nhất định. Sự ảo tưởng vào sức mạnh, tham vọng nổi tiếng bất chấp thủ đoạn sẽ dẫn đến thông tin giả hoặc thiếu trách nhiệm. Ngược lại, nếu ý thức rõ lợi ích xã hội thì sẽ có những nguồn thông tin tích cực, hữu ích.
Trước sóng lớn, có hai cách đối phó
- Nhìn từ phương diện phát triển công nghệ với sự lên ngôi của Facebook và những biến động xã hội với sự xuất hiện của nền kinh tế thị trường, chúng ta thấy rằng sự đa diện hiện nay có xu hướng ngày một phình to hơn, với những diễn biến phức tạp hơn. Liệu chăng chúng ta bắt buộc phải có được một nền giáo dục tiến bộ, đào tạo ra những công dân tiến bộ thì mới có thể sống lành mạnh và không dễ bị người khác "dắt mũi" trong một môi trường phức tạp như vậy?

- PDN: Theo tôi, trước sóng lớn, có hai cách để đối phó, hoặc là ta về ta tắm ao ta, quay lưng lại với thách thức, hoặc là chấp nhận nó, sống chung với nó, chế ngự nó. Với mạng xã hội, không còn cách nào khác, chúng ta phải chung sống và học cách chế ngự nó, làm nó có lợi cho mình. Nếu biết dùng đúng cách, mạng xã hội và cách tương tác trên mạng ngày nay giúp cho người học có được một lượng thông tin khổng lồ, nhanh chóng, và thuận tiện hơn trước kia rất nhiều.

Vì sự học là suốt đời, với chiếc điện thoại thông minh, người ta có thể học được ở mọi lúc, mọi nơi, với sự thoải mái mà trước đây vài năm không ai có thể tưởng tượng được. Tóm lại, hãy học  tự do, khám phá nhân cách của mình, hãy yêu và tin vào các giá trị mà mình cho là đúng đắn, chỉ khi ấy chúng ta mới giữ được tâm tĩnh giữa sóng gió của nhiễu loạn thông tin.
- LQV: Sự phát triển của Facebook hay các mạng xã hội khác là một tất yếu. Nếu không là nó thì sẽ có một hình thái truyền thông dành cho mọi cá nhân con người. Chúng ta hãy coi đó như là một sự phát triển tất yếu và phải làm quen với việc chung sống hòa bình với nó.

Muốn vậy, cư dân mạng phải tự trang bị cho mình một tâm thế sử dụng nó theo hướng tích cực, là nơi tiếp nhận những thông tin được kiểm chứng, là nơi giao lưu, chia sẻ và phản biện, là nơi kết nối, duy trì những mối quan hệ xã hội ngày càng rộng lớn. Muốn vậy, nền giáo dục phải hướng tới xây dựng nhân cách, biết tư duy chủ động, biết tư duy phản biện và cũng biết tự thiết lập hệ giá trị cho bản thân mình.
- Nói cụ thể về giáo dục, theo hai ông, đến khi nào chúng ta mới đạt được những mục tiêu giáo dục như vậy?

- PDN: Khi chúng ta thành thật với chính mình, dũng cảm giải phóng người học khỏi tư duy nhồi nhét đủ loại kiến thức mà ông thầy có được, đề cao giáo dục nhân cách, giúp người học trở thành con người tự do, tự khám phá tri thức cần cho cuộc đời của mình.
- LQV: Khi nền giáo dục của ta bớt giáo điều, bớt khuôn mẫu, bớt những rào cản trói buộc tư duy khám phá, lấy mục tiêu phát triển nhân cách làm trung tâm. Khi nền giáo dục của ta lấy tôn trọng sự khác biệt, bao dung và ủng hộ tư duy sáng tạo cá nhân làm triết lý. Tôi hy vọng vào thế hệ 10x.

- Nhìn từ Đông sang Tây, từ quá khứ đến hiện tại, tôi nghĩ rằng xã hội nào, thời kỳ nào cũng phải đối diện với những sự đa diện trong khuôn khổ của mình. Ví dụ như chính xã hội Việt Nam cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20, khi mà "sự đụng chạm với phương Tây làm tan rã không biết bao nhiêu bức tường thành kiên cố", khi mà văn minh châu Âu ùa vào, va chạm nặng với nền Nho học phong kiến thì các trí thức Việt Nam cũng phải đối diện với tình trạng này. Thời đó, cha ông chúng ta đã đối diện như thế nào, theo ông?
- PDN: Tôi xin nhường câu hỏi này cho riêng anh Vinh!

- LQV: Chúng ta đã chứng kiến những dân tộc như Nhật Bản với Duy Tân Minh Trị, chấp nhận những nền văn minh khác trong khi duy trì, phát huy bản sắc riêng, đều đã trở thành các dân tộc hùng cường. Cha ông chúng ta cũng thế. Có những lúc chúng ta chê bai, dè bỉu công cuộc Âu hóa thời thế kỷ 19 nhưng nếu khách quan nhìn nhận sẽ thấy thời đó có những thay đổi đột phá tạo ra những giá trị mà chúng ta ngày càng phải thừa nhận. Tiếp nhận một cách có chọn lọc những cái mới, ý niệm mới, cách nhìn mới, trong khi chắt lọc những giá trị truyền thống tinh túy để phát huy, chính là con đường phát triển tất yếu của mọi xã hội.
Nói lại về Facebook và những công nghệ cùng với các phát kiến mới, rõ ràng chúng ta thấy có những mặt tốt, tích cực, cần được học hỏi, đưa vào cuộc sống. Nhưng, ở chiều ngược lại, sử dụng chúng với tâm thế của người biết chọn lựa, giữ gìn bản sắc thì chúng ta sẽ hạn chế được những hệ lụy đang có.
- Câu hỏi cuối cùng, người trí thức hiện nay cần phải có những năng lực, những vai trò như thế nào để không chỉ tự mình tránh khỏi những mặt tiêu cực mà sự đa diện mang đến, mà còn tạo ra những tác động tốt đối với phần còn lại của xã hội, từ đó giúp cho sự phát triển nói chung không bị đi lệch dòng?

- PDN: Hãy dũng cảm, thành thật với chính mình, cật vấn chính mình, chỉ phát biểu dựa trên chứng cứ và phân tích rõ ràng, từ đó giúp thúc đẩy các cuộc thảo luận có chiều sâu, thúc đẩy lan truyền kiến thức, tri thức và giác ngộ xã hội.

- LQV: Ở xã hội nào thì vai trò của người trí thức vẫn là định hướng và dẫn dắt. Kêu gọi sự tỉnh táo của người dân trên mạng thì bản thân người trí thức cũng phải đi đầu về việc đó. Người trí thức, với năng lực, kinh nghiệm và phạm vi hiểu biết của mình, phải là những người tích cực tham gia vào quá trình kiểm định thông tin, khách quan đăng tải những nội dung sự thật, làm giảm bớt tư duy bầy đàn và sự chi phối chủ đích của các phù thủy bàn phím.
Người trí thức tức là những người có tư duy độc lập. Công chúng cần những tư duy khách quan và tích cực, để định hướng truyền thông, ngăn chặn thông tin bẩn hoặc ngụy tạo, bịa đặt. Khó hơn nữa, người trí thức sẽ giúp cộng đồng nhìn nhận chân tướng sự việc hiện tượng, tránh bị dắt mũi bởi những cơn lên đồng tập thể.

- Xin chân thành cảm ơn!
Phan Đăng (thực hiện)



Thứ Tư, 26 tháng 12, 2018

Báo Mỹ

Người Việt Nam có nhiều điều người Mỹ rất ngưỡng mộ


Người Việt có nhiều điều ngưỡng mộ. Hôm 19/10, tờ Caller Times (Mỹ) đăng tải bài viết của cô Mary Lee Grant, một người đã từng nhiều năm sinh sống và làm việc tại Việt Nam cho rằng, người Mỹ có thể học hỏi nhiều điều trong cuộc sống của người Việt.
Tại một quán cà Pʜê trên vỉa hè nhìn ra những con phố nhỏ của Hà Nội, bạn tôi và tôi cùng ăn bún chả – món ăn gồm có bún và thịt nướng nổi tiếng của thành phố nằm ở miền Bắc Việt Nam này. Chúng tôi vừa ăn vừa chia sẻ với nhau về những giấc mơ, những kế hoạch. Trong khi đó, ngoài con đường đang chật ních vào giờ cao điểm, những chiếc xe ма́y chen chúc nhau để về nhà khi hoàng hôn đang buông dần xuống thành phố 1000 năm tuổi này.
Khi còn dạy ở Đại học Mỏ địa chất Hà Nội, tôi đã kết bạn với nhiều giáo sư và học sinh, cộng với bối cảnh đáng yêu của Hà Nội. Tôi cảm giác như mình đang sống trong câu chuyện ма̀ bố mẹ tôi đã từng kể về thời họ còn trẻ ở Oklahoma. Khoảng thời gian của Thế hệ vĩ đại có rất nhiều giá trị ма̀ chúng tôi ngưỡng mộ, với những con người đã sống sót qua cuộc đại suy thoái và Thế chiến II, giờ lại đang hiển hiện ở Việt Nam

Giống như Thế hệ vĩ đại ở Mỹ, những người Việt Nam bây giờ đã trải qua chiến tranh và khoảng thời gian giải quyết hậu quả của chiến tranh. Thế hệ già hơn, bao gồm nhiều phụ nữ đã từng cầm súng chiến đấu. Khi đi thăm một ngôi làng bị tàn phá bởi chất độc ма̀u da cam của Mỹ, tôi vẫn được nhiều người phụ nữ đã từng cầm súng tiếp đón thân tình. Điều đó khiến tôi rất ngạc nhiên.

Sau chiến tranh, người Việt Nam phải sống trong cảnh ‘thắt lưng buộc bụng’ khi thức ăn khan hiếm. Cuộc sống khắc nghiệt giống như khi người Mỹ trải qua cuộc đại suy thoái. Trong khi đó, giờ đây, khi người Mỹ đang bị phụ thuộc quá nhiều vào thức ăn chế biến sẵn và đồ ăn nhanh thì ở Hà Nội, những đồ ăn đó lại rất hiếm. Các nguyên liệu nấu ăn đều tươi ngon và thức ăn luôn được nấu ngay tại chỗ. Ở Việt Nam, người dân không phải vật vã với tình trạng béo phì như ở Mỹ. Và không giống như văn hóa “vừa ăn vừa lái xe” của người Mỹ, người Việt hiếm khi ăn một mình. Bữa trưa hàng ngày là thời gian để họ xây dựng các mối quan hệ xã hội. Văn hóa ẩm thực lành ма̣nh chỉ còn là hoài niệm của người Mỹ thì giờ đây đang nở rộ ở Việt Nam.



Việt Nam có nhiều trẻ em - điều ма̀ nhiều người Mỹ thấy ngưỡng mộ.

Những người Mỹ đang tìm kiếm các giá trị đạo đức truyền thống, họ có thể đến Việt Nam. Tình trạng lạm dụng ɱą ƫύʏ rất hiếm. Không ai trong s sinh viên ca tôi dùng сầп ѕа. Các hình phạt về ɱą ƫύʏ rt nghiêm khc. Những người buôn bán ма túy số lượng lớn sẽ phải đối mặt với hình phạt cao nhất là tử hình. Những người vi phm nh hơn sẽ bị giam gi, bị phạt tù và bị cải tạo bằng các hình thức lao động. Tội phạm Bạ0 Łực rất hiếm. Việt Nam có luật về súng đạn nghiêm ngặt nhất hành tinh này. Dường như không có khủng bố.

Khoảng tầm 10 giờ tối, đường phố đã bắt đầu im ắng, có lẽ là vì người dân có thói quen dậy sớm. Khoảng 4 giờ sáng, nhiều người đã ra đường đi bộ.

Khi trở lại Mỹ, tôi thấy một trong những điều nổi bật nhất ở Mỹ là ít trẻ em. Trong khi đó, ở Việt Nam, trẻ em ở khắp mọi nơi. Chúng tự đi học, chơi ngoài trời cả khi trời đã tối giống như những ngày xưa cũ ở Mỹ.

Hàng xóm giúp đỡ lẫn nhau. Họ cũng đối xử rất lịch thiệp với người nước ngoài. Có lần, thẻ tín dụng của tôi bị khóa vì có hoạt động đáng ngờ, tôi đã được tài xế taxi cho mượn tiền. Sau khi làm việc xong với ngân hàng tôi mới trả lại anh.

Giống như Thế hệ vĩ đại ở Mỹ cố gắng hết mình để vượt qua những khó khăn, người Việt cũng vậy.

Cuối bài, Mary Lee Grant kết luận: “Trong khi người Việt Nam nhìn vào Mỹ, ngưỡng mộ sự thịnh vượng của chúng tôi, hệ thống giáo dục của chúng tôi, tôi lại ngưỡng mộ họ. Họ tràn đầy hy vọng, sự kiên cường và rất biết quan tâm tới người khác. Đó là những phẩm chất chúng ta nên học hỏi
Theo Kenh14

Thứ Ba, 25 tháng 12, 2018

Chuyện ít biết về pho tượng nữ thần tự do tại Hà Nội
 
Cách đây hơn 125 năm, Việt Nam chúng ta cũng đã có một tượng Nữ Thần Tự Do. Vậy lịch sử tượng Tự do soi sáng Thế giới (thông thường được gọi là Nữ Thần Tự Do) từ khi xuất hiện cho đến khi biến mất tại Hà Nội, Việt Nam, là như thế nào?
Chuyện ít biết về pho tượng nữ thần tự do tại Hà Nội
Trái: Đảo Tự do, Mỹ; Giữa: Đảo Thiên Nga, sông Seine, Pháp; Phải: Vườn Hoa Cửa Nam, Việt Nam.
Trước hết cần có vài hàng nói về tượng Nữ Thần Tự Do tại cảng New York.
Tượng Nữ Thần Tự Do tại hải cảng New York trên đảo Liberty phía nam đảo Ellis là một món quà đặc biệt của Pháp tặng Hoa Kỳ và được chính thức khánh thành ngày 28 tháng 10, 1886, sau hơn hai năm thực hiện tượng cùng làm chân đài, để kỷ niệm lễ độc lập ngày 4 tháng 7 1884 của Hoa Kỳ. Người thực hiện là điêu khắc gia Frédéric Auguste Bartholdi. Tượng đúng ra mang tên “Tự do Soi Sáng Thế giới” với biểu hiệu tượng là một người phụ nữ mặc áo choàng rộng đại diện cho Nữ thần La mã mang tên Libertas, đầu đội vương miện có bẩy tia dài và nhọn tượng trưng cho nguồn sáng tỏa chiếu ra khắp 7 đại dương và 7 châu, tay phải dơ cao một bó đuốc, trong tay trái ôm một tấm bảng có ghi ngày độc lập Hoa Kỳ (4/7/1776). Tượng cao 46 m. Dưới chân tượng có sợi xích sắt chặt đứt đoạn hàm ý chống lại ách nô lệ. Tượng là một biểu tượng cho Tự do và cho Hợp Chủng Quốc: một dấu hiệu đón chào tất cả những người di dân từ khắp nơi đến đất hứa.
Khi làm tượng Nữ thần, ngoài tượng chính, và một phiên bản gốc kích thước cao hơn 11 m đặt ở trên đảo Grenelle, sông Seine, Paris, Bartholdi có làm một số phiên bản gốc nhỏ có kích thước cỡ 2.85m (chiếm tỷ lệ 1/16 so với tượng chính), trong số đó, một bản đặt trong vườn Luxembourg, Paris, và một phiên bản nhỏ cùng cỡ được cho lên tàu mang sang Việt Nam để dự tham dự Hội chợ Đấu xảo Hà Nội (nay là Cung văn hóa Hữu Nghị Việt – Xô) vào năm 1887.
Lý do sau khi chinh phục được vùng Đông Dương, và có Hòa ước Patenôtre vào năm 1884 (hòa ước Giáp Thân 1884), chính phủ Pháp muốn tổ chức một cuộc đấu xảo/triển lãm (thời đó hai chữ đấu xảo được hiểu theo nghĩa là triển lãm). Địa điểm là một khu đất cỏ trống rộng, nơi thường được tổ chức thi Hương vào những nãm có cuộc thi. Cuộc triển lãm có mục đích phô trương sự văn minh, kỹ thuật tân tiến của Pháp cùng ý đồ “khai hóa”, mang ánh sáng văn minh soi sáng dân thuộc địa qua tượng “Tự Do soi sáng Thế giới”.
Sau cuộc triển lãm năm 1887, khu đất trống phải trả lại cho trường thi Hương diễn ra cứ bốn nãm một lần, tượng được hội Bắc kỳ tương tế (Fraternite Tonkinoise) mượn tạm để khánh thành trụ sở, sau đó tượng được Pháp trao lại cho cho chính quyền Hà Nội, Việt Nam, và được mang đặt tại quảng trường bốn tòa nhà, nơi có một vườn hoa mới làm giữa bốn tòa nhà được dùng làm tòa Thị chính, Kho bạc, nhà Bưu điện, và phủ Thống sứ , nơi này sau đó được mang tên là vườn hoa Chí Linh (nơi hiện nay có tượng đài Lý Thái Tổ và mang tên công viên Lý Thái Tổ).
Khi chính phủ bảo hộ muốn mang tượng ông Paul Bert – vị Thống sứ đầu tiên của nhà nước bảo hộ đã qua đời vào ngày 11, ttháng 11, 1886, chỉ sau bẩy tháng nhậm chức Thống sứ- từ Pháp qua để kỷ niệm Quốc Khánh nước Pháp (14 tháng 7, 1890), họ muốn đặt tượng ông Paul Bert tại vườn hoa Chí Linh, và như thế là tượng Nữ Thần phải mang đi chỗ khác. Trong khi chờ đợi một chỗ đặt, tượng Nữ thần phải đứng trên bãi đất đâu đó. Một kỹ sư Pháp tên Daurelle đề nghị đặt tượng ngay trên nóc Tháp Rùa (Quy sơn Tháp), thế là sau một thời gian nằm trên đất, dân Hà nội thấy tượng Nữ thần (hay tượng Bà Đầm Xòe) đứng trên nóc Tháp Rùa, quay mặt về vườn hoa Chí Linh/vườn hoa Paul Bert/Ngân hàng Đông Dương gần cạnh đó. Vườn hoa Paul Bert còn được gọi là vườn hoa Nhà kèn, vì ở đấy có một nhà bát giác mà hàng tuần đội kèn đồng của dàn quân nhạc Pháp ra đó biểu diễn. Những chi tiết này được viết rõ trong cuốn “Le vieux Tonkin” (Bắc Ký cổ xưa) của Claude Bourrin, viết về xứ Bắc Kỳ trong thời điểm từ 1890 đến 1894 (nhà in IDEO, Hà Nội, 1941, tr. 48-49).
Chuyện ít biết về pho tượng nữ thần tự do tại Hà Nội
(1) Hình chụp từ phía tây hồ Gươm: tượng thần Tư do trên nóc Tháp rùa nhìn về tượng Paul Bert (góc bên tay trái), hình này lấy từ báo L’ Indépendance tonkinoise, số đặc biệt, ra tháng 7/1891
(2) Hình do Bác sĩ Louis Sadoul chụp năm 1890, có tượng thần Tự do trên nóc Tháp rùa, quay lưng vào Nhà Thờ Lớn St. Joseph bên góc phải.
Chuyện ít biết về pho tượng nữ thần tự do tại Hà Nội
(3) Hình vẽ (khuyết danh) từ gần đến xa cho thấy lưng tượng Paul Bert tay trái dương cờ Pháp nằm tại vườn hoa Paul Bert/vườn Nhà Kèn nhìn ra hồ Hoàn Kiếm có tượng thần Tự Do trên nóc Tháp Rùa, và xa hơn nữa là nhà Thờ Lớn bên góc phải.
(4) Post card: Công viên Chí Linh/Paul Bert/vườn nhà Kèn tám cạnh và tòa nhà Kho bạc.
Chuyện ít biết về pho tượng nữ thần tự do tại Hà Nội
(5) Hình vẽ Nữ Thần Tự Do phía sau có Nhà thờ Lớn, có Tượng Tự Do trên nóc Tháp Rùa ở Hà Nội, của Cesard, với ghi chú “Liberté sur le Pagodon du Petit – Lac à Hanoi” được đãng trong báo La Vie Indochinoise, tháng 12 năm 1896. (Nguyễn Phúc Giác Hải- DCV online.net).
(6) Hình thuộc tài liệu của R. Duboil
(7) Hồ Hoàn Kiếm, Tháp Rùa, và cầu Thê Húc.
Qua ghi chú trên những tấm hình kể trên, chúng có thể đoán rằng tượng Nữ Thần đã đứng trên nóc Tháp Rùa từ khoảng từ năm 1890 (dựa theo hình của Louis Sadoul) cho đến 1896 (theo hình vẽ và ghi chú của báo La Vie Indochinoise vào năm 1896.
Như vậy, tượng Nữ Thần bị đặt trên đất một thời gian rồi được đặt trên nóc Tháp Rùa, rồi đến năm 1896 lại được mang xuống vì bị sự phản đối và chỉ trích nặng nề của người dân địa phương và cả một số giới chức Pháp. Và rồi, tượng được chuyển đến vườn hoa Neyret ở phía đông hồ Hoàn kiếm (tức Vườn Hoa Cửa Nam gần Thư viện Quốc gia) cho đến ngày Cách Mạng Tháng 8 1945. Tượng vào thời điểm đó được mệnh danh là Tượng Đài Công Lý (Monument de La Justice).
Chuyện ít biết về pho tượng nữ thần tự do tại Hà Nội
(8) – (9): Bức tượng toàn thân của Paul Bert tay cầm lá cờ Pháp và một người bản xứ nhỏ bé ngồi dưới chân đã tạo nên nhiều bất bình và chỉ trích.
Chuyện ít biết về pho tượng nữ thần tự do tại Hà Nội
(10) – (11): Tượng Nữ Thần đặt tại vườn hoa Cửa Nam – vườn hoa Neyret – (1896-1945)
Vào ngày 1 tháng 8, 1945, tượng Nữ thần, và một số tượng khác (kể cả tượng Paul Bert) bị kéo đổ do lệnh của ông Trần văn Lai, thị trưởng đầu tiên người Việt của Hà Nội. (Bản tin trên báo Đông Pháp ngày 2/8/1945 cho biết, pho tượng Paul Bert bị kéo đổ lúc 9 giờ 10 phút, “Bà đầm xoè” bị giật đổ lúc 9 giờ 45 phút ngày 1/8/1945).
Những tượng đồng bị kéo đổ này được mang cất vào trong kho phế vật của sở Lục lộ thành phố Hà Nội từ năm 1945. Vào năm 1949, chùa Thần Quang thuộc làng Ngũ Xã khởi công dự án đúc tượng phật A Di Ðà. Tài liệu cho biết trong ba năm chuẩn bị đúc tượng (1949-1952), chùa đã kêu gọi khách thập phương đóng góp nhiều đồ đồng để đúc tượng nhưng vẫn không đủ số lượng nên đã đến xin chính quyền cho những tượng đồng trong kho của sở Lục lộ Thành phố, và ông thị trưởng thành phố đã chấp thuận cho chùa Thần Quang tất cả số tượng đồng trong kho, trong số đó có cả tượng Nữ thần và tượng Paul Bert.
Ngày 26 tháng 10, 1952, sồ đồng thu thập đủ loại và từ nhiều tượng kể cả tượng Nữ thần và tượng Paul Bert được đun nóng chảy rồi đổ vào khuôn để đúc tượng A Di Đà cho chùa Thần Quang, làng Ngũ Xã. Pho đại tượng Phật A Di Đà ở chùa Thần Quang này có tư thế ngồi bằng. Tượng có chiều cao 3.95 m, chu vi phần dưới là 11.6m, chu vi toà sen (bệ tượng) là 15 m, tổng cộng trọng lượng là khoảng trên dưới 10 tấn.
Chuyện ít biết về pho tượng nữ thần tự do tại Hà Nội
(12) Tượng A Di Đà: chùa Thần Quang, làng Ngũ Xã
Kết luận
Phiên bản Tượng Nữ thần “Tự Do soi sáng Thế giới” được Pháp tặng cho Việt Nam vào năm 1887, qua nhiều thăng trầm di chuyển nhiều lần, rồi nằm trong bóng tối nhà kho hơn bảy năm trời, sau cùng tượng đã bị nấu chảy để lấy đồng đúc tượng A Di Đà vào năm 1952. Như vậy tổng cộng tượng Tư do đã hiện diện ở Hà Nội, Việt Nam được khoảng 65 năm (1887-1952)
Năm nay 2012 là vừa tròn 60 năm tượng “Tự do soi sáng Thế giới” ở Việt Nam đã nằm trong tâm, thân của tượng A Di Đà của chùa Thần Quang, làng Ngũ Xã.
Trong cõi vô thường sở hữu chủ có có không không, sự xót xa ngậm ngùi tiếc nuối nếu có tưởng cũng chẳng nên lấy thế mà mang thêm phiền muộn. Thôi thì cũng có thể nghĩ dù tượng thần “Tự do soi sáng Thế giới” ở Hà nội không còn nữa nhưng ít nhất người dân Hà Nội hay người Việt trong nước cũng vẫn còn tượng Phật A Di Đà Từ Bi Đức Độ để thờ cúng.
Đăng lại từ bài viết “Tượng Thần Tự Do Tại Hà Nội, Việt Nam”
Tạp chí Chim Việt Cành Nam