Thứ Ba, 22 tháng 1, 2019

PHIM THẦY LANG 

Znachor

Một bộ phim hay của Điện ảnh Ba Lan (1981) đã xem cách đây 36 năm

https://youtu.be/ftq9oEN9aXs

 
Đạo đức xuống cấp bởi giáo dục có vấn đề

(Dân việt) Theo ông Nguyễn Sự - nguyên Chủ tịch, Bí thư Thành ủy Hội An, tỉnh Quảng Nam chia sẻ về những lo ngại và nguyên nhân khiến đạo đức xã hội đang ngày càng xuống cấp.

Vấn đề nóng về đạo đức xuống cấp, được nhắc đến tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ năm 2019 của Bộ VHTTDL, đã được nhiều chuyên gia, nhà quản lý đề cập và lo ngại.

Nhiều chuyên gia, nhà quản lý cho rằng đạo đức xuống cấp bởi mặt trái của kinh tế thị trường. Những giá trị cũ không còn thích hợp chưa mất hẳn, nhưng giá trị mới phù hợp hơn chưa thực sự định hình. Những tấm gương đạo đức trước đây có tác dụng lớn, giờ không còn vị trí, khiến xã hội rơi vào khủng hoảng giá trị. Nghề y và nghề giáo vốn được xem là cao quý nhưng luôn xảy ra những vụ việc đau lòng.

Một lý do nữa được đưa ra là nhiều người trẻ Việt Nam đang lạc lối trong xác định lý tưởng sống, chạy theo sự đua đòi.

Về điều này, ông Nguyễn Sự - nguyên Chủ tịch, Bí thư Thành uỷ Hội An, tỉnh Quảng Nam đã có những chia sẻ thẳng thắn, cởi mở với Dân Việt.










                                        Ông Nguyễn Sự - nguyên Chủ tịch, Bí thư Thành uỷ Hội An, tỉnh Quảng Nam. 
Giáo dục có vấn đề

Ông Nguyễn Sự cho biết, có nhiều nguyên nhân gây ra sự xuống cấp đạo đức trong xã hội hiện nay, trong đó có một vài lý do chủ yếu sau.

“Khi đạo đức xuống cấp, cái tốt không được ca ngợi, thậm chí có những người có hành động tốt còn bị coi là hâm, không bình thường. Tự nhiên người đó bị nhìn nhận theo một cách bất thường, trong khi đáng lý ra đó là điều hết sức bình thường.

Điều thứ hai tôi muốn nói đến là giáo dục có vấn đề. Giáo dục từ trong gia đình tới nhà trường đến xã hội đều có vấn đề. Những hành động dã man thì được nhắc tới hàng ngày như các vụ án mạng, cưỡng bức, có khi đau lòng là người trong cùng gia đình… hay như chế biến những hoá chất độc hại vào thực phẩm khiến con người ngày càng mắc nhiều loại bệnh ung thư, thậm chí dã man tới mức chế biến thuốc giả để bán cho người ta chữa bệnh… nhưng nhiều vụ việc không được xử nghiêm minh.

Điều này dẫn tới việc người tốt sợ kẻ xấu, người ngay sợ kẻ gian. Ra đường người đàng hoàng sợ kẻ lưu manh, thấy điều sai trái không dám lên tiếng, phản ứng mà cúi mặt bước đi. Điều đó đã tạo nên những con người chỉ biết mình, co người lại vì sợ những điều xấu, sai trái…

Điều tệ hại hơn nữa là họ mất niềm tin vào xung quanh, họ không biết tin điều gì trong xã hội. Nên họ chỉ còn một cách duy nhất, là đi tìm một nơi để tạo cho họ bình yên, tin tưởng, và nơi đó thường là nơi vô hình, chốn tâm linh.

Khôi phục, xây dựng đình Thành Hoàng làng

Một thực trạng nữa, chúng ta đang thiếu đi những văn hoá mang tính căn bản, cái gốc của đạo đức, mà điều này tôi cũng nói cách đây nhiều năm, trong một buổi trò chuyện với ông Lê Huy Ngọ - nguyên Bộ trưởng Bộ NNPTNT về việc xây dựng nông thôn mới. Trong việc phát triển nông thôn mới có tới mười mấy tiêu chí, nhưng lại không có tiêu chí xây dựng lại đình Thành Hoàng làng - điều không thể thiếu trong mỗi thôn, làng, vùng quê của Việt Nam.

Đình Thành Hoàng làng được hiểu là nơi thờ những người đã có công tạo dựng, đóng góp cho làng đó, nên được người dân tưởng nhớ, thắp hương mỗi ngày lễ tết, xuân về. Đình còn là nơi thiết chế của cơ quan hành chính, nơi tụ họp của các hương sắc, bô lão mỗi khi làng có việc và phải xử những sự vụ xảy ra trong làng. Đình Thành Hoàng làng cũng là nơi khiến con người ta không dám làm bậy, làm càn, người xử phải nghiêm minh, công bằng, người bị xử ở dưới cũng không dám trơ tráo mà dối trá.

Là nơi thiết chế văn hoá, nơi diễn ra các ngày lễ hội của làng, là nơi tạo sự đoàn kết, gắn kết tình làng, nghĩa xóm, khi nhà nào có việc lớn sẽ trình lên với hương sắc, các bô lão để được tổ chức ở đó. Là nơi để mỗi người dân đi xa lại nhớ về đình làng của mình. Đình Thành Hoàng làng cũng là nơi giáo dục, tạo tính căn bản cái gốc của đạo đức uống nước nhớ nguồn, dạy cho con cháu biết về cội nguồn, nhớ ơn người có công, tổ tiên của mình. Đình Thành Hoàng làng quan trọng và có ý nghĩa rất nhiều mặt như vậy, nhưng không phải ai cũng hiểu và được đưa vào thành tiêu chí của dự án nông thôn mới”, ông Nguyễn Sự chia sẻ.

Xây dựng đền chùa tràn lan, không giống ai

Trong khi đình Thành Hoàng làng có ý nghĩa quan trọng nhưng không được chú tâm, thì ông Nguyễn Sự cho biết, việc xây dựng đền, chùa, miếu mạo lại đang tràn lan và không giống ai.

“Hiện nay đang có tình trạng tả pí lù, lộn xộn trong việc dựng chùa, dựng miếu không giống ai. Họ ngụy biện việc dựng chùa, miếu là mang sắc thái tôn giáo nhưng không hẳn là như vậy, mà nó mang tính buôn thần, bán thánh nhiều hơn. Họ dựng để kinh doanh, như vậy là bất ổn. Từ chuyện này cho chúng ta thấy một điều rất quan trọng, một bộ phận dân chúng đã mất niềm tin vào cuộc sống, nên họ cần tìm tới một nơi vô hình để có niềm tin.

Khi mà người ta tin vào điều không có thật, không thấy, dẫn tới người ta mê muội, dẫn tới cuồng tín thì nhà nhà, người người đi cầu, đi xin. Điều này khiến các nhà kinh doanh, nhà đầu tư nhìn thấy lợi nhuận nên đã lao vào làm kinh tế tâm linh. Thậm chí họ thêu dệt nên giai thoại, rằng ở đó từng có hào quang chiếu sáng, rằng khi có hào quang chiếu sáng thì ở đó có yên bình, cầu sẽ có con…

Tôi ví dụ ở Cù Lao Chàm có một chiếc giếng cổ, giếng nước ngọt bình thường nhưng có giá trị lịch sử về mặt nhân đạo. Nơi nào có giếng tức là ở đó có người ở, có người đến mới đào giếng. Bây giờ cái giếng đó được công nhận là di tích văn hoá, và đang được nghiên cứu để đánh giá lịch sử của Cù Lao Chàm. Nhưng những hướng dẫn viên khi dẫn du khách tới Cù Lao Chàm, dẫn tới giếng cổ đó thì lại thêu dệt rằng, ai không có con thì uống nước giếng này sẽ sinh được con, ai đã sinh con gái rồi và muốn có con trai thì nên uống nước giếng này. Nếu muốn cưới thêm vợ thì cũng nên uống một ngụm…

Ý tôi muốn nhấn mạnh ở đây về việc lợi dụng lòng tin của người khác để kinh doanh, trục lợi, thì tôi không đồng tình, dù tôi nói ra có thể nhiều người sẽ phản đối ý kiến của tôi”, ông Nguyễn Sự nói.

 

Chủ Nhật, 20 tháng 1, 2019

NHÀ THƠ THẠCH QUỲ - VƯƠNG ĐÌNH HUẤN

Thạch Quỳ và bài thơ Với Con



Bài thơ VỚI CON được đăng trên báo Văn Nghệ năm 1980 đã làm ông một phen lao đao, lận đận, lên bờ, xuống ruộng bởi những người lãnh đạo địa phương thiển cận, bảo thủ và ấu trị lúc bấy giờ. Sau đây là nguyên văn bài thơ: 


Với Con 

Con ơi con thức dậy giữa ngày thường
Nghe chim hót đừng nghe mê mải quá
Qua đường đất đến con đường sỏi đá
Cha e con đến lớp muộn giờ.

Con ơi con nàng Bạch Tuyết trong mơ
Không thể nào yêu con thay mẹ được
Và vì thế, nếu khuy áo con bị đứt
Thì nói lên để mẹ khâu cho.

Và con ơi trên ấy ngân hà
Có thể rồi con sẽ lên đến được
Nhưng đêm nay thì con cần phải học
Bốn phép tính cộng trừ hay đọc một trang thơ.

Con ơi con, nếu thầy giáo dạy con
Có ánh sáng bảy màu trong ánh sáng
Thì con hỡi hãy khêu cho rạng
Ngọn bấc đèn con hãy vặn lên to.

Con ơi con, trái đất thì tròn
Mặt trăng sáng cũng tròn như đĩa mật
Tất cả đấy đều là sự thật
Nhưng cái bánh đa tròn, điều đó thật hơn!

Mẹ hát lời cây lúa để ru con
Cha cày đất để làm nên hạt gạo
Chú bộ đội ngồi trên mâm pháo
Bác công nhân quai búa, quạt lò.

Vì thế nên, lời cha dặn dò
Cũng chưa hẳn đã là điều đúng nhất
Cha mong con lớn lên chân thật
Yêu mọi người như cha đã yêu con.

1980
MỘT LẦN GẶP VÀ ĐÔI ĐIỀU VỀ THẠCH QUỲ -  

Vào một buổi chiều mùa hè năm 1990, khi tôi công tác tại Công ty XNK Nghệ An, đang ngồi uông bia trước cổng Sở Văn hóa thông tin Nghệ An số 74 đường Nguyễn Thị Minh Khai, thành phố Vinh thì thấy Thạch Quỳ bước vào quán, tôi ngỏ lời kính mời anh, có lẽ vì tự giới thiệu là đồng hương cùng quê Đô Lương, nên anh vui vẻ nhận lời...Tôi biết Thạch Quỳ vì anh là một thầy giáo dạy toán cấp 3 nhưng lại nổi tiếng trên làng văn nghệ cả nước, đây là dịp may được gặp trực tiếp và được nghe anh nói về thơ...    

Sau hôm gặp Thạch Quỳ tôi tìm được một bài viết của nhà thơ Võ Văn Trực quê gốc làng Hậu Luật, xã Diễn Bình, Diễn Châu nói tác giả bài thơ Với Con là "Ông Đồ Gàn xứ Nghệ"...    


Nhà văn Võ Văn Trực, một người anh, người bạn rất thân thiết của Thạch Quỳ, trong bài viết của mình trên báo CAND đã gọi Thạch Quỳ là Ông đồ gàn xứ Nghệ. Theo nghĩa đen thì Thạch Quỳ đúng thế. Ông đồ - Thạch Quỳ là Ông đồ xứ Nghệ thì Thạch Quỳ không chạy đi đâu được; Còn gàn thì… người Nghệ, trí thức Nghệ, kẻ sĩ Nghệ thảy đều gàn. Gàn theo nghĩa là ít hòa đồng, là ngang, là bướng, là lập dị trong mắt đám đông. Thạch Quỳ gàn, theo anh Trực là thích cà pháo mắm tôm, cả khi được người đẹp mời cơm cũng khoai luộc, cà pháo, và mắm. Thạch Quỳ gàn nhưng không phá ngang. Lão chỉ gàn khi gặp những gì không thực chất, những gì hình thức, giả dối mà thôi!

Thạch Quỳ tên thật là Vương Đình Huấn, quê ở Trung Sơn là vùng đất khá trù phú. Cánh đồng lúa nước trải trước làng như tấm thảm xanh, chưa tới mức mênh mông nhưng cũng có thể gọi là thẳng cánh cò bay. Phía sau làng là con đường quốc lộ 15. Bên kia đường 15 là cánh bãi, phù sa sông Lam mang đến cho người dân nơi đây những rau trái bốn mùa lắm thức, lắm món thật dồi dào, phong phú.

 

Họ Vương ở Đô Lương là những dòng họ lớn có nhiều khoa bảng đỗ đạt. Họ Vương có nhiều nhà thơ như Vương Trọng, Thạch Quỳ, Vương Cường, Vương Duyệt, Vương Đình Trâm…

 

Trông Thạch Quỳ chẳng khác gì những hạt bụi giữa đám bụi người đông đảo. Nhưng đánh hai chữ Thạch Quỳ vào Google thì có hàng vạn thông tin về ông..


Cái ông đồ gàn này đẻ ra dưới chân Núi Quỳ tính cách cứng như đá, đến xứ Nghệ hỏi trăm người thì có đến trăm rưỡi người biết anh nhưng đa phần đều nể sợ, chơi thân thì rất hiếm. Đến Hội văn Nghệ hỏi nhà Thạch Quỳ đâu, ai cũng nhiệt tình chỉ dẫn, hẹn đến chơi nhà anh thì mắt trước mắt sau nói cười nhàn nhạt, kiếm cớ chuồn hẳn.

 

Tính gàn có từ thời trẻ, làm giáo viên toán dạy cực siêu nhưng soạn giáo án chẳng giống ai, lên lớp chẳng giống ai, chấm điểm chẳng giống ai, đối xử với học trò cũng chẳng giống ai. Anh nói với học trò tôi ăn lương nhà nước không phải để đi truyền thụ kiến thức đâu nhé, các anh chị đừng có mơ, lương nhà nước trả tôi chỉ vừa đủ cho tôi gợi mở kiến thức thôi, kiến thức không phải mấy món đồ mồi thầy cô bày ra cho các anh chị chén đâu, muốn giỏi giang thì liệu thần hồn tự đi mà kiếm lấy.

 

Có người nghe được hỏi anh tại sao lại nói với học trò như vậy, anh cười khấc khấc, nói bởi vì học trò của tôi không phải là những con vẹt, chúng là con người, con người viết hoa hẳn hoi đấy nha chứ không phải hạng cá ươn như các anh đâu. Từ khi vác ô đi làm anh công chức nhà nước Thạch Quỳ đả đồng sự kiểu đó nhiều vô thiên lủng, người ngoài nghe sướng rêm, kẻ trong giận tím ruột.

Khoảng năm 1967 khi anh còn dạy ở miền tây Nghệ An, nghe có người xin ra HTX, nhà trường cử anh về tận nhà gặp gỡ động viên giải thích cho người này. Anh tới hỏi răng bác bỏ HTX? Người này cười cái hậc, nói tui như con gà, muốn ở trong chuồng lắm chớ! Nhưng trong chuồng có con cáo, có ai bắt cáo cho mô mà vô. Thạch Quỳ gật gà gật gù, nói hay hay giỏi giỏi, rồi đi kể chuyện khắp nơi. Ông xếp huyện gặp Thạch Quỳ, nói anh là thầy giáo tại sao lại đi tuyên truyền lời lẽ của bọn phản động. Thạch Quỳ cười khấc khấc, nói chính bác mới là thằng phản động, bởi vì bác cấm đoán những lời nói thật.

 

Tất nhiên sau đó Thạch Quỳ mất dạy. Anh bỏ giáo dục sang hẳn làng văn nghệ, tình hình chẳng khá hơn, đồ gàn gặp đồ lót đồ hèn đồ dơ chịu làm sao thấu. Năm 1980 anh làm bài thơ Với con ai cũng khen hay, báo Nhân dân đăng lại đàng hoàng nhưng trong tỉnh nổi lên một cơn sóng thần phản ứng dữ dội. Xuân Diệu ba chân bốn cẳng chạy về Vinh, Hội nhà văn cử hết đoàn này sang đoàn khác về giải thích này nọ nhưng chẳng ăn thua, cơn sóng thần ngày một lan toả, ai cũng lo cho anh, mình cũng lo. Mình gặp anh ở Hà Nội, nói răng rồi tình hình răng rồi, anh nhăn răng cười, nói tình hình là rất tình hình. Rồi anh nốc cạn ly rượu, nhổ nước bọt cái toẹt, nói è he, mần cặc chi tao.

 

Dạy học bỏ dạy, làm tạp chí văn nghệ được mươi số cãi nhau với mấy ông khóm róm không xong, anh phất áơ “ từ quan”, nói è he ẻ ẻ quẹt quẹt, ba vạn cũng bỏ. Năm 1996 gặp anh ở Hà Nội, anh kéo mình vào quán, nói này, ông làm báo với tôi nhé, thằng bạn tôi ở Bộ giao thông mời tôi ra làm báo Tiếng còi. Mình cười hì hì, nói anh thổi còi hay bạn anh thổi còi? Nếu hơi của anh còn việc thổi là của bạn, anh có chịu không. Anh uống cạn chén rượu, nhổ nước bọt cái toẹt, nói rứa thì ẻ vô.

 

Được vài tháng gặp anh ở ga, anh kéo vào quán, nói tôi lại về Nghệ đây. Mình hỏi sao, anh ngồi yên không nói, uống rượu tì tì, một lúc nhổ nước bọt cái toẹt, vỗ vai mình cái bộp, nói này ông, tôi sống với mấy đứa ác còn dễ chịu hơn sống với mấy đưa ngu. Mình chẳng biết nói sao, chỉ khẽ vỗ nhẹ vai anh, nói thôi anh về quê tiếp tục công tác rượu chè gái gú cho khoẻ xác. Anh nhăn răng cười, nói phải phải, mạng tôi chỉ hợp với gái thôi, chẳng hợp với thằng đéo nào.


Mình cười khì, nói anh phét vậy thôi chứ anh tán gái vụng bỏ cha. Mấy cô yêu thương ngưỡng mộ thì anh coi người ta bằng nửa con mắt, mấy cô coi anh bằng nửa con mắt thì anh đánh đu suốt đời, cuối cùng xôi hỏng bỏng không. Anh cười khấc khấc khấc, nói rứa mới đồ gàn. Tôi mê gái từ lúc sáu tuổi, không nói phét đâu nhé, các cô gái đẹp trong làng tôi đều mê, bất kể họ hơn tôi vài chục tuổi. Ra đồng tôi cứ bám theo họ, lắm khi họ phát điên, đuổi đánh chí chết. Đường từ làng ra đồng có hai hàng cây xương rồng, cứ một đoạn tôi lại khắc tên một cô tôi mê vào cây xương rồng, sáu bảy chục cô cả thảy. Cô nào cười chồng tôi mò đến đám cưới đứng đầu ngõ đái một phát rồi bỏ chạy, coi như trả thù xong. Dứt lời anh cười to, nói bây chừ thì đi mô cũng mò về mụ Nhã, ẻ vô gái gú, quẹt quẹt.

 

Chị Nhã vợ anh xưa xinh đẹp nhất làng, yêu anh từ 13 tuổi, đến 16 tuổi thì theo anh bôn ba cho đến bây giờ, khổ đau đói nghèo đắng cay đủ hết không một lời ca thán. Hôm mình đến chơi nhà, bất ngờ thấy chị quá xinh đẹp so với anh. Chị lúi húi tất tả hết vào bếp xáo nấu, ra vườn hái rau, xuống bể rửa chén, nói mãi chị mới chịu ngồi vào mâm. Hồi này xứ Nghệ có phong trào nuôi hươu sao, một con hươu cái đến mấy chục triệu. Anh khoác vai chị hôn cái chụt, nói em có biết anh mơ gì không, anh mơ sáng mai ngủ dậy, bên anh không phải là em mà là một con hươu sao.

 

Mọi người cười, chị cũng cười rất tươi. Mình nói anh nói thế mà chị không giận anh à. Chị lườm yêu anh, nói cả tỉnh cả nước giận ông này rồi, chị giận nữa thì ông sống với ai. Anh cười khấc khấc khấc, nói anh nói chơi vậy thôi, bây giờ anh vô dụng rồi, anh ước anh biến thành con hươu sao để em bán đi lấy tiền nuôi con không thì cực quá.

 

Chị không cười, nước mắt rân rấn. Anh cười khấc khấc khấc, chẳng phải cười, nghe như anh cố khạc ra mấy cục đắng ngắt.


Những lời thổ lộ của ông về bài thơ Với Con: 

“Bài thơ tôi rất tâm đắc nhưng nó cũng làm cho tôi lao đao. Thời ấy đất nước vừa thoát ra từ những cuộc chiến tranh, nhiều người cứ thấy rằng chúng ta đã thắng lớn trong sự nghiệp giải phóng đất nước và bảo vệ Tổ quốc nên lý tưởng hóa cuộc sống cho rằng sau 15 - 20 năm đất nước và cuộc sống của người dân mình sẽ là thiên đường, trong khi, nông dân thu hoạch mỗi ngày chưa được một lạng thóc, công nhân, trí thức hầu hết ăn hạt bo bo. Bài thơ “Với con” là nói với con cái trong nhà nhưng thực ra là muốn tâm sự với tất cả mọi người về hiện thực lúc đó. Khi viết bài thơ này tôi rất thận trọng vì đụng vào sự thật ấy là chuyện lớn, không đùa được.

 

Bài thơ ấy không viết bằng thơ mà được viết bằng Toán. Bởi vì Toán là chỉ có những mệnh đề khẳng định hoặc phủ định, chính xác, rõ ràng, minh bạch. Còn thơ là ý niệm, gợi mở, ai muốn hiểu thế nào thì hiểu.

 

Bài thơ này có hai tầng. Tầng một chẳng có vấn đề gì. Đó là những lời nói với con trong nhà và bám vào những chi tiết thực tế. Ví dụ: Con đi học thì đừng nhìn cây, nhìn cỏ, nghe chim hót mà chậm giờ... Còn nàng Bạch Tuyết con say mê đọc trong cổ tích cũng không thể thay việc chăm chút của mẹ con hàng ngày. Đằng nào rồi cũng phải mẹ thôi.

 

Hay là những chuyện như quả đất tròn, vầng trăng tròn mơ mộng cũng chưa cần thiết, cái quan trọng, gần gũi, thiết thực hơn vẫn là cái bánh đa vừng nuôi sống con người. Nghĩa đen chỉ như vậy.

 

Mọi vấn đề đều nằm ở tầng hai, nhưng ở tầng hai cũng không đơn giản, phân tích, phê phán chỉ tên tác giả, nếu “lơ mơ” sẽ thành suy diễn. Cho nên do cách hiểu áp đặt qua bài thơ, mọi việc bùng lên thành những chuyện phức tạp. Trong thời điểm bấy giờ sự cố ấy xẩy ra cũng là một lẽ tự nhiên thôi mà”

 

 “Từ một bài thơ Với con nói chuyện trong nhà nhưng bị đưa ra cuộc họp cho là chống chủ trương, chính sách... Ở thời điểm đó, tôi thấy mình lâm vào hoàn cảnh nan giải phải nghỉ việc cơ quan.

 

Tôi không dám đến nhà ai, bởi đến đâu, gặp ai cũng có thể gây phiền. Tôi sắm một cái cần câu, từ sáng sớm đi lang lang ra hồ Thạch, cuối chiều thì về. Câu cá mãi mấy tháng liền cũng chán, trong người thấy quá mệt mỏi.


Nhân lúc có việc nhà, tôi đã lên tàu ra Hà Nội. Mới sáng sớm chưa rõ mặt người đến nhà người em trai đang là cán bộ giảng dạy, mới nằm khoảng 15 phút đã có tiếng gõ cửa. Một anh công an khu vực đã đến kiểm tra hộ khẩu.

 

“Vì bài thơ ấy đăng trên báo Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam nên nhiều người ở Hà Nội đều biết. Ở Hà Nội dư luận có hai chiều. Nhiều người nói rằng bài thơ ấy cũng bình thường, chẳng cần phải làm to chuyện lên như trong này.


Sau đó Hội Nhà văn đã cử một đoàn 6 người vào tổ chức một hội thảo văn học. Đưa thêm một số tác giả như Hồng Nhu, Bá Dũng, Xuân Hoài... ra để cùng thảo luận, đánh giá.

 

Bản thân tôi được một số nhà văn nhắc đến nhiều tác phẩm đã viết trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước và khẳng định tư tưởng các tác phẩm ấy đều phục vụ cách mạng. Không ai đào sâu vào bài thơ “Với con” nữa...

 

“Tôi viết sự thật, không tính thiệt hơn, được gì, mất gì cho bản thân. Ở thời điểm nào cầm bút viết, thì tôi cũng phải viết những vấn đề bức xúc mà cuộc sống dội vào. Tôi đã không đầu hàng khi đã nhận thức ra bản chất của sự việc. Đó không riêng là nỗi bức xúc của cá nhân mà là sự thúc bách của thời đại, phải khơi dòng mở đường cho sự phát triển.

 

Hầu hết các vấn đề tôi viết đều là những bức xúc của đời sống, bài nào cũng mang những câu hỏi lớn cần được trả lời. “Với con” không phải là bài thơ hay vì nó được viết bằng Toán.

 

Là một nhà văn đối diện với cuộc sống, thấy vấn đề gì bức xúc, tôi dồn tâm huyết vào để góp phần tháo gỡ những vấn đề cho toàn dân chứ không phải chỉ là những vui buồn nhỏ của riêng mình”

Thứ Bảy, 19 tháng 1, 2019

HOÀNG SA LÀ MÁU THỊT CỦA VIỆT NAM

Hoàng Sa chưa bao giờ bị lãng quên trong trái tim người Việt

Hôm nay, 19.1 đã tròn 45 năm, ngày Hoàng Sa của Việt Nam bị chiếm đóng. Núm ruột quê hương vẫn còn vợi xa đất mẹ. Nhưng vùng biển đảo thân yêu Hoàng Sa chưa bao giờ bị lãng quên trong trái tim người dân Việt.

Sau những ngày mưa dài ảm đạm cuối đông, sáng sớm 19.1, trời miền Trung hửng nắng, ngoài kia biển bỗng xanh một màu đến nao lòng. Du khách và những người dân Đà Nẵng đi biển sớm hôm nay ngỡ ngàng trước những nén hương thắp dọc bờ biển... Nhưng rồi ai cũng chợt nhận ra, đêm qua đã có những người dân lặng lẽ thắp những nén hương này bên bờ biển Đông để ngưỡng vọng ra Hoàng Sa, để tri ân những người con đất Việt đã ngã xuống bảo vệ vùng biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Trước đó, chính quyền huyện đảo Hoàng Sa, TP.Đà Nẵng cũng đã tổ chức đi thăm hỏi, tặng quà, chúc Tết đến từng gia đình nhân chứng hoặc thân nhân những người từng sống, làm việc, chiến đấu tại quần đảo Hoàng Sa từ trước 19.1.1974.

Chánh Văn phòng UBND huyện Hoàng Sa Lê Phú Nguyện gửi cho chúng tôi danh sách, địa chỉ các nhân chứng sống mà đoàn công tác chính quyền huyện đảo sẽ đến thăm, tặng quà. Tôi lặng người, thẫn thờ vì thấy cái danh sách ấy ngày càng ngắn đi. Các cụ đã lần lượt ra đi từng năm vì tuổi cao sức yếu. Trong số 15 địa chỉ để đến thăm thì nay đã có 8 nơi chỉ để thắp hương viếng các cụ. Họ là những cán bộ của cơ quan khí tượng thủy văn, là những chiến sĩ địa phương đã từng công tác, chiến đấu tại quần đảo Hoàng Sa từ trước năm 1974.
Hoàng Sa tươi đẹp và trầm luân vẫn còn nguyên trong trí nhớ các cụ. Nhưng bây giờ, niềm vui của chúng tôi mỗi lần đến thăm, nghe các cụ kể chuyện sống động về Hoàng Sa không còn nữa. Nén hương cũng dường như ngậm ngùi.

Tuy vậy, với người dân Đà Nẵng, người dân Việt Nam, một tấc đất của cha ông để lại, dù số phận thế nào cũng không bao giờ bị lãng quên. Mỗi người, mỗi nơi có một cách tưởng nhớ, nhắc nhở khác nhau. Như nén hương của những người dân thầm lặng thắp lên bên bờ biển đêm qua, như những Hội thảo khoa học về Hoàng Sa, những chuyến thăm hỏi vào dịp 19.1 hàng năm của chính quyền Đà Nẵng, như những người dân lấy tên đảo đặt tên con..., hay tràn ngập trên mạng xã hội những tình cảm, kỷ niệm của người dân liên quan đến Hoàng Sa đã minh chứng điều ấy.
Ông Đặng Công Ngữ, nguyên Chủ tịch UBND huyện đảo Hoàng Sa (nhiệm kỳ 2009 - 2014) khẳng định: "Nếu vẫn còn nhớ, vẫn còn nhắc đến thì chúng ta không bao giờ sợ mất Hoàng Sa. Trận hải chiến Hoàng Sa 1974 là sự kiện có thật. Lịch sử là chân lý, nên cần phải ghi chép khách quan. Đó là trận chiến không thể nào quên, không được quyền quên. Không chỉ từng người dân Việt Nam mà nhân dân thế giới cần phải biết".

Những nghĩa sĩ đã bỏ lại xương máu trong suốt quá trình xác lập, bảo vệ chủ quyền biển đảo đối với Hoàng Sa luôn được người dân ngưỡng vọng, tri ân và xem là những anh hùng dân tộc…
Thanh Hải   https://laodong.vn/

Ghi chú: Bài viết trên báo Lao động không nói rõ là bị ai chiếm đóng??? Thật đáng lo lắng, bao giờ  mới lấy lại được đất mẹ. 



Bối cảnh và diễn biến Hải chiến Hoàng Sa 1974

Nguồn: Carl O. Schuster, “Battle for Paracel Islands”, Historynet, 06/2017.
Biên dịch: Lê Đỗ Huy | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp


Ngày 11/01/1974, các sĩ quan Nam Việt Nam nhận được báo cáo về những động thái của Trung Quốc trên hai hòn đảo của Nam Việt Nam thuộc quần đảo Hoàng Sa. Hai ngày sau, Bộ tư lệnh Hải quân Sài Gòn phái hai tàu khu trục Lý Thường Kiệt HQ-16 và Trần Khánh Dư HQ-4 tới thám sát.

HQ- 16 tới đảo Hữu Nhật (Robert Island) vào 16/1 và nhận thấy đảo này đã bị “ngư dân” Trung Quốc, từ hai thuyền đang neo tại bãi ven đảo, chiếm đóng. Chỉ huy tàu HQ – 16 lệnh cho những người Trung Quốc rời đảo và bắn thị uy để họ hiểu ý định của ông. Sau đó họ bắn và phá hủy các lá cờ Trung Quốc và một khu vực chế biến cá mà những “người đánh cá” triển khai 6 ngày trước đó. HQ – 4 tới Hoàng Sa ngày 17/1 và phái một đơn vị đặc nhiệm SEAL của Nam Việt Nam lên đảo Hữu Nhật và đảo Quang Ảnh (Money Island) gần đó để nhổ những cờ Trung Quốc. Ngày 18/1, hai tàu chiến của Nam Việt Nam đuổi một tàu đánh cá bằng lưới rà của Trung Quốc, buộc con tàu bị phá hủy nặng nề này phải rời vùng biển. Sau đó các tàu khu trục Trần Bình Trọng HQ-5 và tàu quét mìn Nhật Tảo HQ-10 tới Hoàng Sa.
Sài Gòn nghĩ rằng đã chặn được nỗ lực trong suốt 6 tháng liền của Bắc Kinh nhằm chiếm nửa phía tây của Hoàng Sa. Những “ngư dân” có vũ trang của Trung Quốc trước đó hầu như đã đẩy được các ngư dân Nam Việt Nam ra khỏi vùng biển Hoàng Sa, và ít nhất có hai tàu đánh cá Trung Quốc đã bị phát hiện đang hoạt động tại vùng nước mà Nam Việt Nam tuyên bố chủ quyền. Nhưng biến động gần nhất này của Trung Quốc lại là khởi đầu của một giai đoạn mới trong nỗ lực nhằm chiếm toàn bộ Hoàng Sa. Lần này, những “ngư dân” Trung Quốc là thành viên của lực lượng Dân quân biển  – một lực lượng bán vũ trang của Hải quân Trung Quốc.
Hai chiếc tàu cá gần đảo Hữu Nhật báo cáo về Bộ Tư lệnh Hạm đội Nam Hải Trung Quốc. Ngày 16/1, Bộ Tư lệnh Hạm đội ra lệnh cho hai tàu săn ngầm lớp Kronstadt đóng tại đảo Hải Nam tháp tùng lực lượng dân quân biển tới hiện trường, về mặt công khai là để bảo vệ ngư dân Trung Quốc, nhưng chủ yếu là để tập trung binh lực. Trung Quốc cũng hạ lệnh triển khai hai tàu quét ngư lôi. Bắc Kinh quyết định giải quyết tranh chấp tại Hoàng Sa bằng vũ lực nếu thời cơ cho phép.
Quần đảo Hoàng Sa gồm 130 đảo san  hô, mỏm đá ngầm và bãi cát nằm rải rác trên 5.800 dặm vuông trên Biển Đông, cách gần đều cảng Đà Nẵng của Việt Nam (200 hải lý) và đảo Hải Nam của Trung Quốc (162 hải lý). Diện tích của toàn quần đảo (chỉ tính mặt đất) là khoảng 3 dặm vuông. Hầu hết các đảo hợp thành Nhóm đảo An Vĩnh (Amphitrite Group) về phía đông bắc và Nhóm đảo Lưỡi liềm (Crescent Group) về phía tây, cách nhau khoảng 39 hải lý. Đảo Phú Lâm (Woody Island) thuộc nhóm An Vĩnh là lớn nhất trong các đảo thuộc Hoàng Sa, có diện tích khoảng 530 mẫu Anh.
Cho dù những tuyên bố chủ quyền của cả Việt Nam và Trung Quốc đều có từ các triều đại phong kiến xa xưa, gốc rễ của sự tranh chấp giữa Trung Quốc và Nam Việt Nam gắn với những năm 1930 và các tham vọng của thực dân Pháp. Nước Pháp, cường quốc đô hộ Việt Nam từ 1858, đã đưa ra tuyên bố chủ quyền đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ 1932 nhưng từ đầu không quan tâm đến việc chiếm giữ các đảo này trên thực tế. Điều này thay đổi vào năm 1937 khi cuộc chiến của Nhật Bản với Trung Quốc – vốn bắt đầu từ năm 1931 với việc Nhật chiếm Mãn Châu Lý –  leo thang khi Nhật tiến quân sâu vào lãnh thổ Trung Quốc. Người Pháp lo Trung Quốc hay Nhật sẽ chiếm các quần đảo (Hoàng Sa và Trường Sa) nên đã đặt một trại lính gồm khoảng 100 lính Pháp và Việt tại đảo Phú Lâm vào năm 1938 như một khu đệm để mở rộng chu vi phòng thủ cho các thuộc địa Đông Dương của Pháp.
Nhà cầm quyền Anh ủng hộ bước đi này của Pháp vì nó mở rộng phạm vi phòng thủ của thuộc địa Malaya của Anh. Cả hai cường quốc châu Âu này cho rằng cuộc chiến tranh của Nhật chống Trung Quốc chỉ là bước đi ban đầu của kế hoạch chiếm các thuộc địa của châu Âu ở Đông Nam Á. Nhưng thay vì răn đe hành động của Nhật trên Biển Đông, việc đồn trú tại Hoàng Sa của Pháp lại khiêu khích Nhật. Nhật cho một đơn vị nhỏ lính thủy đánh bộ đổ bộ lên đảo Phú Lâm chỉ một tháng sau khi Pháp cho quân đồn trú. Quân đồn trú trên đảo đầu hàng, không nố súng chống lại. Nhật sáp nhập Trường Sa và Hoàng Sa vào năm 1941, tuyên bố chúng thuộc Đài Loan, đảo đang bị Nhật chiếm đóng lúc đó.
Sau khi Mỹ ném bom nguyên tử xuống Nhật ngày 6 và 9/8/1945, Tokyo bắt đầu rút quân khỏi các quần đảo này. Chính phủ Quốc dân Đảng Trung Hoa chiếm nhóm đảo An Vĩnh (Amphitrite) hai tháng sau đó, và đặt một đồn trên đảo Phú Lâm vào tháng Giêng 1946. Pháp sau đó do không đẩy được quân Quốc dân Đảng ra khỏi Nhóm đảo An Vĩnh bằng một cuộc biểu dương lực lượng hải quân đành tuyên bố chủ quyền đối với Nhóm đảo Lưỡi liềm và đổ bộ một trung đội lê dương lên đảo Hoàng Sa (Pattle) để ngăn quân Quốc dân Đảng chiếm đóng đảo này.
Chính phủ Quốc dân Đảng lặp lại yêu sách đối với toàn bộ Biển Đông năm 1947, xuất bản một bản đồ đưa các yêu sách lãnh thổ vào khuôn khổ một “đường chín đoạn” dọc vành ngoài của Biển Đông. Năm 1949, quân Trung Cộng đẩy chính quyền Quốc dân Đảng ra Đài Loan. Nhật Bản từ bỏ tuyên bố chủ quyền đối với các quần đảo trên Biển Đông tại Hội nghị hòa bình San Francisco 1951, nhưng không giao quyền kiểm soát của mình cho bất cứ một bên có yêu sách cụ thể nào khác, đẩy vấn đề sở hữu các quần đảo (Hoàng Sa và Trường Sa) rơi vào tình trạng không được giải quyết. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tuyên bố rằng họ thừa kế các yêu sách đối với Biển Đông từ chính phủ Quốc dân Đảng.
Mặc dù vậy Nam Việt Nam đã chiếm đóng nhóm đảo Lưỡi liềm từ năm 1954 và đặt một lực lượng đồn trú nhỏ trên ba hòn đảo. Trung Cộng giành quyền kiểm soát nhóm đảo An Vĩnh và đảo Phú Lâm vào năm 1956. Ngư dân Trung quốc đổ bộ lên đảo Quang Hòa (Duncan) năm 1959 nhưng phía Nam Việt Nam đã đuổi họ đi.
Khi Chiến tranh Việt Nam leo thang, Sài Gòn, tin tưởng vào sự hỗ trợ của Hải quân Mỹ, đã rút các đơn vị đồn trú của mình. Tới năm 1967, sự hiện diện của Nam Việt Nam tại quần đảo chỉ còn một trạm khí tượng. Trung Quốc tỏ ra chấp nhận nguyên trạng.
Hai biến chuyển trong tình hình những năm 1970 đã thay đổi bàn cờ Biển Đông: các báo cáo về trữ lượng dầu tại thềm lục địa vùng này xuất hiện vào giữa năm 1972, và Hiệp định Paris về lập lại hòa bình ở Việt Nam chấm dứt sự dính líu của Mỹ ở Việt Nam. Các lãnh đạo châu Á đột nhiên nhận thấy tranh chấp Biển Đông không chỉ là một vấn đề chính trị và hành chính, mà còn là vấn đề phát triển kinh tế. Nhóm thân cận với Mao tính toán rằng những phần thưởng về kinh tế lớn hơn những rủi ro xảy ra xung đột quân sự. Vả lại, những rủi ro đang giảm xuống.
Mao nhận thấy một chính phủ Mỹ đang rút chân khỏi Nam Việt Nam sẽ thiếu ý chí dấn vào một cuộc xung đột khác, lại đang mong được Trung Quốc hỗ trợ chống lại một Liên Xô đang ngày càng thách thức hơn. Nguyên thủ Trung Quốc kết luận rằng chế độ Sài Gòn khó có khả năng được Mỹ hỗ trợ, và sự tồn tại của nó cũng đang được tính bằng ngày. Nhóm thân cận với Mao cũng hiểu rằng Bắc Việt Nam vẫn còn cần viện trợ của Trung Quốc trong nỗ lực chiến thắng Nam Việt Nam, đồng thời đồng minh khác của Hà Nội là Liên Xô không có lực lượng trên địa bàn này để cản trở Trung Quốc hành động đối với các đảo (trên Biển Đông). Mao ra lệnh tiến hành một loạt những bước đi nhằm ép Nam Việt Nam từ bỏ Hoàng Sa.
Không biết các ý định của Bắc Kinh, Sài Gòn tuyên bố quyền kiểm soát về hành chính tại nhóm đảo Lưỡi liềm vào tháng 8/1973 và một tháng sau cho phép thực thi các hợp đồng thăm dò dầu khí tại các vùng nước quanh nhóm đảo này. Cuộc đột nhập đầu tiên của đội tàu đánh cá của Trung Quốc xảy ra vào cuối tháng 7. Một số “ngư dân” có vũ trang, và ít nhất một tàu trong số này là loại bọc thép, nhưng chúng rút ngay mỗi khi các đơn vị Hải quân Nam Việt Nam tới. Sài Gòn triển khai các đơn vị đồn trú có quân số khoảng một trung đội trên ba hòn đảo thuộc nhóm đảo này.
Tháng 10/1974, các tàu đánh cá lưới rà số 402 và 407 của Trung Quốc đưa thủy thủ đoàn đổ bộ lên đảo Quang Hòa, thiết lập một trạm cung cấp, hầm hào, và cắm cờ Trung Quốc khắp trên đảo. Nam Việt Nam bắt giữ một số tàu đánh cá Trung Quốc vào tháng 11 cùng thủy thủ đoàn của chúng. Các thủy thủ Trung Cộng bị đưa về Đà Nẵng nơi họ phải thú tội trên truyền hình về các hành động phạm pháp và các tội ác đối với nhân dân Việt Nam trước khi được thả. Nhưng những vụ tàu đánh cá Trung Quốc tấn công dân chài Việt Nam tiếp tục diễn ra. Cùng kỳ, Mao ra lệnh cho Hải quân Trung Quốc chuẩn bị hành động quân sự để hỗ trợ các ngư dân Trung Quốc.
Ngày 10/01/1974, một nhóm ngư dân Trung Quốc tiến hành đánh bắt cá tại đảo Hữu Nhật thuộc nhóm đảo Lưỡi liềm. Nhóm này đã bị các dân chài Việt Nam phát hiện 3 ngày trước, nhưng họ không thông tin được cho nhà cầm quyền Nam Việt Nam cho tới khi về tới Đà Nẵng hôm 11/01/1974. Cùng ngày, Bắc Kinh ra tuyên bố nhắc lại chủ quyền không thể tranh cãi của nước này đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như bãi ngầm Macclesfield, một đảo san hô vòng cách quần đảo Hoàng Sa 70 hải lý về phía Đông.
Nhận thấy những ý đồ của Bắc Kinh, Sài Gòn cử các tàu khu trục HQ-16, HQ-4, HQ-5, và tàu quét thủy lôi HQ-10 chở đội đặc nhiệm SEAL đến đảo Hữu Nhật. Hai trong số các tàu khu trục trên là thủy phi cơ đời Thế chiến II được cải tiến, tháo bỏ các thiết bị hỗ trợ thủy phi cơ, còn chiếc thứ ba là tàu khu trục hộ tống được cải tiến. Tất cả chúng ở trong tình trạng kém, thường xuyên xảy ra các vấn đề về kỹ thuật và vũ khí, khiến tốc độ và hỏa lực đều bị hạn chế.
Đến nơi vào ngày 16/1, các tàu chiến của Nam Việt Nam đã nhanh chóng đuổi các ngư dân Trung Quốc đi. Tàu đánh cá (TQ) số 407 báo cáo sự việc HQ-16 tới lên Bộ chỉ huy dân quân biển tại Du Lâm trên đảo Hải Nam ngay sáng 16. Điện báo này về tới Bắc Kinh vài giờ sau.
Chiều tối hôm đó, Hạm đội Nam Hải của Trung Quốc phái hai tàu săn ngầm lớp Kronstadt mang số hiệu 271 và 274 đón một đại đội dân quân biển gồm bốn trung đội (mỗi trung đội 10 người) từ đảo Phú Lâm đưa sang Nhóm đảo Lưỡi liềm. Bắc Kinh cố gắng tăng viện cho quân của họ, nhưng giống như đối phương, tàu chiến của Trung Quốc cũng ở trong tình trạng tồi tệ.
Cuộc Cách mạng Văn hóa của Trung Quốc – một cuộc thanh trừng chống các ảnh hưởng phi chủ nghĩa xã hội và các đối thủ của Mao – đã làm hư hoại gần như hoàn toàn các xưởng đóng tàu của nước này. Hơn 2 triệu nhà khoa học, kỹ sư, nhà giáo, công nhân lành nghề, cán bộ hành chính bị tù đày hoặc giết chết, gồm cả những người đã đóng và bảo dưỡng tàu bè của nước này cũng như mạng lưới đường sắt chuyển vật tư tới các xưởng đóng tàu.
Kết quả là tàu chiến tốt nhất của Hải quân Trung Quốc, các khu trục hạm loại Type 065 đã không thể khởi hành. Còn chiếc 271 vừa xuất xưởng và chưa hoàn tất việc chạy thử trên biển, và chiếc 274 với động cơ diesel ở tình trạng kém, không thể đạt tốc độ 18 hải lý/giờ. Vậy mà chúng vẫn nhanh hơn, được trang bị tốt hơn các tàu của hải quân Nam Việt Nam. Hai chiếc tiêm kích Thẩm Dương J-6, bản copy của MIG – 19 do Liên Xô sản xuất, yểm hộ đường không cho các tàu săn ngầm, nhưng không có năng lực hoạt động tầm xa đủ để trực chiến trên đầu các tàu khi chúng nhập cuộc sáng 17/1.
Vào rạng sáng 18/1, hai tàu Trung Quốc đã đưa được một trung đội dân quân biển lên đảo Duy Mộng, một trung đội khác lên đảo Quang Hòa tây, và hai trung đội lên đảo Quang Hòa. Các trung đội này lập tức tiến hành đào hầm hào và đặt mìn và bẫy phía trước trận địa của họ. Hai tàu rà thủy lôi loại Type 10 đóng ở Quảng Châu, mang số hiệu 389 và 396, được lệnh tăng cường cho các tàu săn ngầm loại Kronstadt mang số hiệu 271 và 274. Chúng cũng đến nơi vào cuối buổi sáng hôm đó.
Hai chiếc tàu chiến khác có thể hoạt động được lúc đó của Trung Quốc là hai tàu săn ngầm lớp Hải Nam được điều từ Sán Đầu, cách đó khoảng 476 hải lý. Chúng tiến về Hoàng Sa với tốc độ tối đa, được tiếp dầu ở Trạm Giang, phía nam Hồng Kông, và tại Du Lâm. Các tàu chiến này được lệnh hỗ trợ các thuyền đánh cá của dân quân biển với điều lệnh chiến đấu “không gây sự; không bắn trước; nhưng nếu lâm chiến, phải thắng”.
Vào sáng sớm 19/1, hạm trưởng chia tàu của Trung Quốc thành hai nhóm: tốp đầu gồm 4 chiếc do các tàu săn ngầm Kronstadt dẫn đầu, và tốp sau gồm các tàu săn ngầm lớp Hải Nam vừa tới. Hạm trưởng được lệnh đáp trả mọi thách thức đối với các tàu đánh cá của dân quân biển và hỗ trợ các ngư dân trên các đảo nếu cần.
Hải quân Nam Việt Nam cũng chia thành hai tốp. Tốp đầu bao gồm các tàu khu trục HQ-4 và HQ-5. Tốp này chạy vòng quanh các đảo Quang Ảnh (Money) và Hải Sâm (Antelope) từ phía nam và tiếp cận đảo Quang Hòa. Tốp thứ hai gồm các tàu quét mìn HQ-10 và tàu khu trục HQ – 16, băng qua vùng đầm phá tại Nhóm đảo Lưỡi liềm từ phía tây bắc.
Hai tàu săn ngầm lớp Kronstadt của Trung Quốc chiếm vị trí để theo dõi các tàu HQ-4 và HQ-5, trong khi các tàu quét mìn loại Type 10 bám theo các tàu HQ-10 và HQ-16. Hạm trưởng HQ – 16 dự cảm trận đánh sắp xảy ra – đã tăng tốc vượt lên các tàu quét mìn Trung Quốc, và 14 lính đặc nhiệm của Nam Việt Nam được đưa lên hai thuyền cao su để giành lại đảo Quang Hòa và Quang Hòa Tây. HQ-16 đâm mạnh và làm hỏng nặng tàu quét mìn 389; thủy thủ trên chiếc 389 bắn vào cầu tàu và ụ súng phía trước của HQ-16, giết hoặc làm bị thương hầu hết thủy thủ Nam Việt Nam trên đó. Cuộc giao chiến sau đó đã diễn ra theo như ý đồ của Trung Quốc.
Các lính đặc nhiệm, từng dự kiến có hải quân yểm hộ, nay phải một mình đối đầu với các tàu Trung Quốc. Họ lên bờ giữa ban ngày, đối địch với một lực lượng kẻ thù đông, cố thủ trong chiến hào trên cả hai đảo Quang Hòa và Quang Hòa Tây, nên nhanh chóng bị đẩy lùi. Họ cố trở lại các thuyền cao su dưới làn đạn kẻ thù, trong khi các tàu hải quân Nam Việt Nam dàn hàng ngang tiến thẳng vào đội hình địch, bắn vào buồng hoa tiêu của địch và tìm cách xoay chuyển thế trận thành một cuộc chiến của pháo tầm xa. Không may cho lực lượng Nam Việt Nam, họ không có được tốc độ, do đó các tàu cơ động hơn của Trung Quốc có thể quyết định khoảng cách giao tranh. Hạm trưởng Trung Quốc ra lệnh: “Tăng tốc tiến lên, đánh cận chiến, thọc mạnh”. Biết rằng các tàu của mình trang bị kém và sẽ bị áp đảo trong một cuộc đấu súng tầm xa, hạm trưởng Trung Quốc quyết định dùng chiến thuật “giáp lá cà”. Sau 10 phút giao tranh, chiến trường đã thu hẹp từ phạm vi 2, 3 hải lý xuống còn vài trăm mét.
Các tàu săn ngầm lớp Kronstadt bắn cấp tập vào HQ-4, trong khi các tàu quét mìn Type 10 tập trung hỏa lực pháo 37mm vào chiếc HQ-16, nhằm vào buồng hoa tiêu, trung tâm thông tin và các radar. Bị bắn hỏng nặng, chiếc HQ-16 phải thoái lui. Các tàu quét mìn chuyển sang bắn vào HQ-10, nhằm vào kho đạn ở đuôi tàu, gây một tiếng nổ khiến phần động cơ phía trước con tàu này tê liệt.
Các tàu quét mìn chỉ cách HQ-10 có khoảng mười thước, khiến các nòng pháo còn lại của chiếc tàu Nam Việt Nam này không thể bắn vào những con tàu thấp và nhỏ hơn của đối phương đang tiếp cận sát thân tàu. Súng bộ binh của thủy thủ Trung Cộng quét dọc ngang sàn tàu và buồng hoa tiêu, sát hại thuyền trưởng và hầu hết thủy thủ điều khiển tàu.
Chiếc HQ-16 bị hư hại cố tiếp ứng cho HQ-10 nhưng bị đẩy ra xa bởi hỏa lực của quân Trung Quốc. Nó phải rút về phía đông nam, trong khi HQ-4 và HQ-5 rút về phía nam. Hai tàu săn ngầm lớp Hải Nam của Trung Quốc tới nơi khoảng trưa 19/1, bắn tiếp vào chiếc HQ-10 khiến nó chìm vào lúc 1h chiều.
Cùng lúc, Bắc Kinh lo ngại Sài Gòn sẽ tăng cường quân cho các đồn còn lại trên các đảo, gồm khoảng 2 đại đội bộ binh trên các đảo Hữu Nhật, Hoàng Sa (Pattle), và Quang Ảnh, và các lính đặc nhiệm còn sống sót. Hạm đội Nam Hải pha trộn một đội hình chắp vá gồm tất cả những đơn vị nào còn có thể lên đường: một tàu khu trục, năm tàu phóng lôi, và tám tàu tuần tra loại nhỏ. Được tổ chức thành ba đội tàu đổ bộ và vận tải, các tàu này chở 500 lính thuộc 3 đại đội bộ binh, một đại đội dân quân và một nhóm trinh sát vũ trang.
Đội tàu này triển khai thành đội hình thuận cho xuất phát. Tốp đầu gồm bốn chiếc tàu tuần tra và các tàu lưới rà của dân quân biển mang số hiệu 402 và 407, mang  theo một đại đội bộ binh 100 lính. Tốp hai gồm một đại đội bộ binh và đội trinh sát thủy – bộ được rải ra trên bốn chiếc tàu tuần tra và chiếc tàu quét mìn 389. Chiếc tàu khu trục Nam Ninh, vốn là một tàu hộ tống của Nhật trước đây, trở thành thê đội ba, chở một đại đội bộ binh và được bổ nhiệm làm soái hạm của chiến dịch này.
Tốp đi đầu tiến công đảo Hữu Nhật, bắn pháo vào những người giữ đảo để đẩy họ khỏi bờ biển, rồi đổ bộ lính bộ binh bằng các thuyền cao su và xuống ba lá. Hữu Nhật thất thủ sau 10 phút. Thê đội 2 tiến đánh đảo Hoàng Sa (Pattle), đẩy 30 lính giữ đảo về phía giữa đảo nơi họ đầu hàng sau một giờ giao tranh. Trong trận đánh trên đảo này, Trung Quốc bắt được viên thiếu tá Nam Việt Nam chỉ huy lực lượng đồn trú tại quần đảo Hoàng Sa và viên cố vấn được phái tới từ Đại sứ quán Mỹ. Các lính đặc nhiệm trên đảo Quang Ảnh bỏ vị trí trước khi Hải quân Trung Quốc tiến công, trốn thoát được vài ngày trước khi bị bắt.
Cho đến cuối chiều 20/1, toàn bộ quần đảo Hoàng Sa đã rơi vào tay Trung Quốc. Hơn 100 lính Nam Việt Nam bị giết hoặc bị thương, và 48 lính Nam Việt Nam và một sĩ quan liên lạc người Mỹ bị bắt, so với 18 lính Trung Quốc bị chết, 67 người khác bị thương.
Đây là một thắng lợi lớn của Hải quân Trung Quốc: một tàu phá thủy lôi của Nam Việt Nam bị chìm, ba tàu khu trục bị hư hỏng nặng, so với hai tàu săn ngầm, một tàu quét thủy lôi và một tàu đánh cá của Trung Quốc bị hư hỏng nặng.
Trung Quốc dành 2 tuần tiếp theo để gia tăng sự hiện diện hải quân xung quanh các đảo và củng cố phòng ngự, bao gồm cả việc triển khai một tàu ngầm lớp Romeo và ba tàu khu trục trang bị tên lửa dẫn đường lớp Thành Đô, mang theo các tên lửa hành trình chống hạm loại Styx.
Về chiến thuật, các đơn vị hải quân Nam Việt Nam có hỏa lực mạnh hơn đối phương, nhưng họ không có một hệ thống radar điều khiển hỏa lực, do đó phải bắn qua lỗ ngắm, làm giảm đáng kể khả năng bắn trúng các mục tiêu cơ động nhanh như các tàu tuần tiễu của Trung Quốc. Mặc dù tình trạng kỹ thuật của tàu chiến cả hai bên ngăn cản họ hành động ở tốc độ cao nhất, các tàu của Trung Quốc vẫn đạt được tốc độ tới 7-10 hải lý/giờ, một ưu thế khiến họ có thể quyết định cự ly giao tranh.
Một khi đã đạt được cự ly cách các tàu của Nam Việt Nam nửa dặm, các vũ khí nhẹ, tác xạ nhanh của tàu Trung Quốc và sự linh hoạt tạo cho họ một ưu thế rõ ràng. Chiến trường được quyết định trong một khoảng cách chỉ 200 thước. Không gian chỉ huy, hoa tiêu và liên lạc của các tàu Nam Việt Nam đối mặt với hỏa lực tầm gần chính xác, và các pháo lớn của họ bị vô hiệu ở tầm bắn gần. Các tàu của Nam Việt Nam đành rút lui, để các đơn vị đồn trú trên các đảo không được hỏa lực hải quân hỗ trợ.
Nam Việt Nam đe dọa sẽ trả đũa nhưng nhận thấy cán cân lực lượng hải quân nghiêng về phía Trung Quốc. Hơn nữa, Sài Gòn có nhiều mối lo đè nặng. Cơ quan tình báo Sài Gòn đang dõi theo các đường vận tải và chuyển quân của Bắc Việt đổ theo hướng qua Lào và đông Campuchia. Việc dồn quân dọc biên giới Nam Việt Nam là một dấu hiệu gây lo ngại về ý định của Hà Nội.
Cùng lúc, Hà Nội phản đối động thái này của Bắc Kinh nhưng không hành động gì. Bắc Việt vẫn cần sự ủng hộ của Trung Quốc để tổ chức, động viên lực lượng của mình cho trận đánh cuối cùng nhằm giành quyền kiểm soát Nam Việt Nam. Sau khi thống nhất đất nước vào tháng 4/1975, Hà Nội nhanh chóng giành quyền kiểm soát các đảo do Nam Việt Nam nắm giữ trên quần đảo Trường Sa. Những năm sau chiến tranh, Việt Nam tiếp tục phản đối việc Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa và duy trì tuyên bố khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo này, cũng như với các đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Việt Nam tuy vậy chưa bao giờ tìm cách chiếm lại Hoàng Sa. Nước này còn bị thua trong một cuộc hải chiến vào những năm 1980 khi Trung Quốc tấn công ba đảo đá san hô do Việt Nam kiểm soát thuộc quần đảo Trường Sa.
Trong các cuộc giao tranh kể trên và trong các hành động gần đây, Bắc Kinh đã lặp lại các chiến thuật nó đã sử dụng vào năm 1974 tại quần đảo Hoàng Sa. Thứ nhất, cho các tàu đánh cá thâm nhập vùng tranh chấp, trong đó có cả các tàu đánh cá của lực lượng dân quân biển, để xua đuổi lực lượng bên kia. Các tàu của lực lượng Hải cảnh Trung Quốc được triển khai gần đó nhằm hỗ trợ các tàu đánh cá nếu cần, còn xa hơn là các nhóm tàu hải quân để hỗ trợ các tàu Hải cảnh. Cả lực lượng hải cảnh lẫn các đơn vị hải quân đều không bắn trước, nhưng nếu chiến sự xảy ra, họ sẽ phải chiến thắng. Trung Quốc cũng thiết lập một sân bay quân sự trên đảo Phú Lâm và đồn trú quân trên một số đảo san hô mà họ chiếm được gần đây tại Trường Sa.
Việt Nam cũng đáp lại bằng cách vũ trang cho các tàu đánh cá của mình và thiết lập quan hệ đối tác quân sự với Ấn Độ và Nhật Bản, đồng thời tìm cách hợp tác quân sự với cựu thù Hoa Kỳ. Với 5 bên cùng tuyên bố chủ quyền chống lại Trung Quốc, Biển Đông đã trở thành một “điểm nóng” và kích thích một cuộc chạy đua vũ trang khu vực mà có người lo ngại sẽ châm ngòi cho một cuộc chiến tranh mới.
 
Carl O. Schuster là một sĩ quan Hải quân đã nghỉ hưu sau 25 năm công tác, với những năm cuối cùng phục vụ trong ngành tính báo quân sự. Hiện sống ở Honolulu, Schuster tham gia giảng dạy chương trình Ngoại giao và Khoa học Quân sự tại Hawaii Pacific University.
Posted on  by The Observer