NGUYỄN BÍNH – NHÀ THƠ HIỆN ĐẠI
(Tiểu luận kỷ
niệm 30 năm ngày mất của nhà thơ Nguyễn Bính 20-1-1996)
Ảnh
thi hào Nguyễn Bính (1918-1966)
Nhân
một buổi hội thảo thơ 1932-1945, một độc giả hỏi : “ Nếu cần phải chọn một câu
thơ hay nhất để đại diện cho Thơ Mới (thơ
tiền chiến), ông sẽ chọn câu thơ của ai ?”. Không do dự, tôi trả lời : “ Tôi
xin chọn câu lục bát: “ Anh đi đấy, anh
về đâu / Cánh buồm nâu cánh buồm nâu cánh buồm !” của Nguyễn Bính”. Lại hỏi
: “nếu phải chọn một bài cho nền thơ ấy, ông chọn bài nào ?”. Trả lời : “ Tôi
chọn bài Tống biệt hành của Thâm Tâm”. Lại hỏi : “nếu phải chọn một tập hay
nhất của nền thơ ấy, ông chọn tập nào?” . Trả lời : “Tôi chọn tập “ Lửa thiêng”
của nhà thơ quê Hà Tĩnh Huy Cận”. Lại hỏi : “nếu phải chọn một đời thơ tiêu
biểu nhất của nền thơ ấy, ông chọn ai ?”. Tôi trả lời : “ Tôi chọn Nguyễn Bính
!”.
Vâng,
Nguyễn Bính, nhà thơ bị giời đầy : “ Mình tôi giời bắt làm thi sĩ !” Câu thơ
ông viết từ những năm đầu của thập kỷ 40 đã vận vào ông : “Chung lưng làm một
chuyến đi đầy”. Thậm chí ông còn nhắc con gái sau này :
“Nhất
kiêng đừng lấy chồng thi sĩ
Nghèo
lắm con ơi bạc lắm con”.
Có
lẽ, trong thơ tiền chiến, Hàn Mặc tử và Nguyễn Bính là hai nhà thơ có số phận
ít được vận may chiếu cố. Hàn Mặc tử bị trăng hành. Còn Nguyễn Bính bị con bướm
Trang Chu hành tới bến. Nếu Thế Lữ được biểu tượng thơ là con hổ, Lưu Trọng Lư
là con nai, Chế Lan Viên là con ma Hời, Xuân Diệu là con chim ngứa cổ hót
chơi…thì con bướm là biểu tượng cho thơ Nguyễn Bính :
“ Có ai điên dại như tôi nhỉ
Nuôi bướm làm con để nhớ người”
Nuôi bướm làm con để nhớ người”
Hay :
“ Hồn trinh còn ở trần gian
Nhập về bướm trắng mà sang bên này”…
Nhập về bướm trắng mà sang bên này”…
Trong
thơ ông, bươm bướm bay nhiều quá, rượu và hoa nhiều quá, nhiều quá những cô gái
đẹp chưa chồng. Nhưng bướm đã bay đi, rượu đã nhạt, hoa đã tàn, trinh nữ đã
theo chồng hoặc đã chết, chỉ còn mình nhà thơ ngồi lại với phũ phàng và điên
đảo :
“Mưa chiều nắng sớm người ta bảo
Cả đến ông giời cũng đổi thay” (Giời mưa ở Huế)
Cả đến ông giời cũng đổi thay” (Giời mưa ở Huế)
Tháng
chạp năm Nhâm Ngọ 1942, khi mới 24 tuổi, Nguyễn Bính đã viết được những câu thơ
hay đến kinh hãi về nỗi buồn, nỗi cô đơn của kẻ lạc loài, của nỗi oán hận suồng
sã phải thất tình thay cho con ong cái bướm :
“Uống say cười vỡ ba căn gác
Ném cái chung tình xuống đáy sông” (Xuân tha hương)
Ném cái chung tình xuống đáy sông” (Xuân tha hương)
Cùng
“cái chung tình” ấy, nhà thơ hầu như đã ném tuổi trẻ mình xuống đáy sông của
định mệnh, theo kiểu Thúy Kiều ném 15 năm lưu lạc xuống đáy Tiền Đường .
Nguyễn
Bính mồ côi mẹ từ tấm bé. Ta hiểu vì sao nỗi bơ vơ ám ảnh suốt đời ông. Ta hiểu
ngay từ lúc mới 13 tuổi, làm bài thơ đầu, ông đã thèm yêu, thèm sống, thèm khát
ràng buộc với tất cả và chia tay tất cả. Ông đã vịn vào chuồn chuồn bươm bướm
tập đi như vịn chính vào niềm hư vô của kiếp người. Theo Hoài Thanh, Nguyễn
Bính chưa hề được đến trường ! (Giống văn hào M. Goocki của Nga ?). Ông tự học
theo người cha và người cậu. Thầy của ông là chim muông cỏ rả làng Thiện Vịnh
xa xôi. Tuy nhiên, mọi thứ nào thay thế được mẹ ông.
Nguyễn
Bính mồ côi mẹ nên đã mồ côi cả đất trời. Hình như ông đã lớn lên bằng cảm giác
của Trần Tử Ngang - người đi dọc thơ Đường : “ Tiền bất kiến cổ nhân / Hậu bất
kiến lai giả …( Trước không thấy người trước / Sau chẳng thấy người sau). Cảm
giác ngồi một mình bơ vơ trên trái đất của Trần tiên sinh xưa không chỉ được
Nguyễn Bính chia xẻ, mà đã thành phận số đời ông. Năm 1937, khi mới 19 tuổi,
nhà thơ đã viết một bài thơ tuyệt vời
“Những
bóng người trên sân ga” với tận cùng cô đơn kiếp người hay đến mức không còn có
thể hay hơn nữa :
“ Chân bước hững hờ theo bóng lẻ
Một mình làm cả cuộc phân ly”
Một mình làm cả cuộc phân ly”
Câu
thơ viết ra gần 60 năm rồi, đã sống và chết theo bao lớp người, theo bao trang
giấy, qua bao nhiêu trào lưu hiện thực siêu thực, hiện sinh rồi cấu trúc, có
vần với không vần, lạ thay, chưa có một ai nói về nỗi cô đơn kiếp người hay
bằng câu thơ này của thần thơ Nguyễn Bính ? Hóa ra, cái hình ảnh giản dị và xúc
động tận cùng kia, cái dáng người một mình đưa tiễn bóng mình kia, cho đến muôn
đời vẫn cứ còn mới mãi, thấm thía và rung cảm mãi.
Nguyễn
Bính với cảm quan thiên phú, một trực giác của thảo mộc chim muông, đã biết
cách tiễn mình đi vào thi ca bằng lối đi của con bướm dưới gốc hòe Trang tử !
Cái dáng “Chân bước hững hờ theo bóng lẻ” kia không biết mình đang tiễn bóng
hay bóng đang tiễn mình ? Với triết học bản thể, câu thơ “ một mình làm cả cuộc
phân ly” không chỉ là biểu tượng sinh động, kỳ vĩ, mà còn là một khơi gợi, một
phát hiện tâm linh trong hình trình nhập thể nhân loại. Chúng tôi tin rằng, câu
thơ này của Nguyễn Bính còn theo ta tới cuối cuộc đời, đến nơi ta chia ly chính
bản thân mình để vào vô tận.Viết được những câu thơ có thể sánh với bất cứ thơ
Tây Tầu nào hay nhất, ai bảo thơ Nguyễn Bính không hiện đại ?
Thế
mà từ năm 1941, năm ra đời cuốn “Thi nhân Việt Nam”của Hoài Thanh, đã có khá
nhiều bài viết, nhiều khảo luận về thơ, khi nói về Nguyễn Bính, đều ăn theo lối
kết luận phiến diện của Hoài Thanh Hoài Chân cho Nguyễn Bính là thơ nhà quê,
chân quê, đồng quê, quê mùa…
Nói
về Nguyễn Bính theo trường phái Hoài Thanh mới chỉ nhìn nhà thơ ở phần nổi,
phần xác chữ nghĩa mà chưa đủ tầm đi sâu vào hồn thơ rất cổ điển, lại rất hiện
đại của Nguyễn Bính làng Thiện Vịnh, huyện Vụ Bản, Nam Định kia (huyện Vụ Bản
còn là quê hương của một thiên tài thi nhạc khác đồng thời với Nguyễn Bính là
Văn Cao)
Nguyễn
Bính đi tận cùng dân tộc để thành hiện đại: thơ ông phần xác còn mang nâu sồng
ca dao nhưng phần hồn đã vươn tới cõi hiện đại vô cùng nhân loại vậy ! Chúng
tôi không muốn nói đến “chủ nghĩa hiện đại” phương Tây mà Việt Nam hầu như
không có, nên không coi tính hiện đại của thơ chỉ lụy vào con chữ, vào cái bí
hiểm cung quăng không thể hiểu, vào cái siêu thực nằm ngoài cảm nhận, mà chỉ
đánh giá thơ qua cái sự hay, sự xúc cảm của nó, của nghĩa bóng thơ luôn cất
cánh từ nghĩa đen như những câu thơ hay của thi hào Nguyễn Bính mà thôi !
Cho
nên, với chúng tôi, hiện đại hay không hiện đại cốt ở hồn thơ, ở nỗi cảm nỗi
hay của nó mà thôi. Những câu ca dao và thơ cổ hay nhất của văn học cha ông ta
ai bảo không hiện đại nào ? “Gió đưa cây
cải về trời / Rau răm ở lại chịu lời đắng cay” của ca dao hiện đại quá đi
chứ ? “ Có thì có tự mảy may / Không thì
cả thế gian này cũng không” của thơ Lý Trần hiện đại quá đi chứ ?
“Cái quay búng sẵn trên trời / Mờ mờ nhân
ảnh như người đi đêm” của Ôn Như hầu hiện đại quá đi chứ ? “ Bắt phong trần phải phong trần / Cho thanh
cao mới được phần thanh cao” của Nguyễn Du hiện đại quá đi chứ ? “Hoa thì hay héo cỏ thường tươi” của
Nguyễn Trãi hiện đại quá đi chứ ? “Hồn cô
cát bụi kinh thành / Đa đoan vó ngựa chung tình bánh xe” của Nguyễn Bính
hiện đại quá đi chứ ?
Hầu
hết thơ Nguyễn Bính dưới cái vỏ chân quê giản dị hiền lành như ca dao, nhưng
giấu ẩn sức nghĩ, sức cảm, sức gợi vô cùng tận, hiện đại vì nó hay ở mọi lúc
mọi thời. Viết về cái đẹp của sự trống vắng, gợi ra, vẽ ra được cái vẻ tôn giáo
của hư vô tồn tại ngay trong lòng cái hữu hạn, phỏng có nhà thơ tiền chiến qua
mặt được câu thơ này của Nguyễn Bính :
“Giếng thơi mưa ngập nước tràn
Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều”
Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều”
Nỗi
trống vắng vô chủ của ba gian nhà trong câu thơ, đã được xúc cảm đẩy từ cái cụ
thể thành cái vô biên : nỗi trống vắng và vô chủ của đất trời. Mượn nỗi hoang
vu bé mọn của nắng chiều trong căn nhà nhỏ để tả nỗi hoang vu vũ trụ, cũng là
nỗi hoang vu muôn thuở hồn người, lục bát Nguyễn Bính hiện đại lắm ru !
Khi Nguyễn Bính tả nỗi cô đơn đến rêu mốc bí mật của kinh thành Huế, cũng để nói vế vẻ huy hoàng tàn phai, hay chính là hồn suông thi nhân mượn cả hoàng thành mà hiu quạnh :
Khi Nguyễn Bính tả nỗi cô đơn đến rêu mốc bí mật của kinh thành Huế, cũng để nói vế vẻ huy hoàng tàn phai, hay chính là hồn suông thi nhân mượn cả hoàng thành mà hiu quạnh :
“Thâm u một giải hoàng thành
Đình suông con én không đành bay đi” (Vài nét Huế)
Đình suông con én không đành bay đi” (Vài nét Huế)
Con
én tân thời không nỡ bỏ cái hoang phế hoàng thành bay đi hay chính là cái níu
kéo của hiện tại với quá khứ ? Cái chấm én mọc lên như một cái mầm, cái chồi
của lẻ loi, khiến vẻ tàn phai càng tàn phai hơn nữa. Ngoảnh lại cố đô, con én
thi ca mà Nguyễn Bính đính lên từ độ ấy, vẫn không đành đoạn bay đi, như thể
loài chim thơ ấy vẫn còn là tình nhân bao thời đại đã đi qua !
Trí
tuệ thơ Nguyễn Bính là trí tuệ sương mù, của hoa bướm của lửng lơ mây khói.
Chất sang trọng hàn lâm giấu trong lục bát nâu sồng Nguyễn Bính như hồn sen
giấu trong bùn, ghé mắt vào ta sẽ thấy hoa sen :
“ Hồn anh như hoa cỏ may
Một chiều cả gió bám đầy áo em”
Một chiều cả gió bám đầy áo em”
“ Buồng hương bóng bóng mình mình
Gió hiu hiu hắt qua mành mành hoa”
Gió hiu hiu hắt qua mành mành hoa”
Bên
cạnh những bài lục bát nổi tiếng : “Tương tư”, “Lỡ bước sang ngang”, “Người
hàng xóm”…ông còn những bài lục bát hiện đại khác : “”Lửa đò”, “ Vũng nước”, “
Qua nhà” và “Thời trước”…
Khi đánh giá thơ tiền chiến nói chung và Nguyễn Bính nói chung, người ta đã thừa nhận sự vượt trội của thơ lục bát Nguyễn Bính nhưng chưa thấy trong thể thơ bảy tám chữ, Nguyễn Bính cũng chẳng kém cạnh bất cứ thi nhân hàng đầu nào cùng thời với ông.Trong thể loại mượn cảnh tả tình, Nguyễn Bính đã có bài thơ vào hàng tuyệt tác là bài “Xuân về” có thể đứng ngang hàng với các bài hay nhất của Hàn Mặc tử và Huy Cận. Về thể hành, bài thơ “Hành phương Nam” của ông không hề hổ thẹn đứng bên cạnh bài tuyệt bút “Tống biệt hành” của Thâm Tâm. Viết về đất thần kinh xứ Huế, xưa nay chưa thấy bài nào hay bằng bài “Xóm Ngự viên” của Nguyễn Bính ? Ông đã làm sống lại thời vang bóng bằng câu thơ hay đến ma quái :
Khi đánh giá thơ tiền chiến nói chung và Nguyễn Bính nói chung, người ta đã thừa nhận sự vượt trội của thơ lục bát Nguyễn Bính nhưng chưa thấy trong thể thơ bảy tám chữ, Nguyễn Bính cũng chẳng kém cạnh bất cứ thi nhân hàng đầu nào cùng thời với ông.Trong thể loại mượn cảnh tả tình, Nguyễn Bính đã có bài thơ vào hàng tuyệt tác là bài “Xuân về” có thể đứng ngang hàng với các bài hay nhất của Hàn Mặc tử và Huy Cận. Về thể hành, bài thơ “Hành phương Nam” của ông không hề hổ thẹn đứng bên cạnh bài tuyệt bút “Tống biệt hành” của Thâm Tâm. Viết về đất thần kinh xứ Huế, xưa nay chưa thấy bài nào hay bằng bài “Xóm Ngự viên” của Nguyễn Bính ? Ông đã làm sống lại thời vang bóng bằng câu thơ hay đến ma quái :
“ Sớm đào, trưa lý, đêm hồng phấn
Tuyết Hạnh, Sương Quỳnh, máu Đỗ Quyên”
Tuyết Hạnh, Sương Quỳnh, máu Đỗ Quyên”
Hai câu này có thể ngang với câu vi diệu của Xuân Diệu :
“Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh” ( Nguyệt Cầm)
Đã chết đêm rằm theo nước xanh” ( Nguyệt Cầm)
Hãy
đọc lại hồn thơ bi hùng ngang trời lệch đất Nguyễn Bính như “ Giời mưa ở Huế”,
“Xuân tha hương”, “Oan nghiệt”…ta thả mình vào nỗi quằn quại như mất cả hình
hài, đau thương dữ dội và đồng bóng, để chia xẻ với nỗi vong thân, vong quốc
của lớp thanh niên trước 1945. Những bài thơ “ Cô hái mơ”, “Trường huyện”, “
Hoa và rượu”…là những bài thơ đẹp nhất thơ tiền chiến của Nguyễn Bính. Đâu đây
ta nghe có hơi Huy Cận trong hồn thơ “ một trời quan tái” Nguyễn Bính :
“ Chênh vênh bóng ngả sầu lau lách
Chiều ngái hương rừng lối nhạt son”
Chiều ngái hương rừng lối nhạt son”
Cái
hơi Đường thi từ Huy Cận đi lạc vào Nguyễn Bính rất sang trọng, quý phái : “ Áo
bào nguyệt bạch ngựa kim ô” hay đấy, siêu đấy nhưng không phải mạch chính của
thơ ông. Cái hơi, cái hồn, cái vía Nguyễn Bính là ở những câu thơ rất Việt rất
hay như :
“ Một con diều giấy không ăn gió
Õng ẹo chao mình xuống vệ đê”
Õng ẹo chao mình xuống vệ đê”
Có
hàng trăm người viết về tơ liễu từ thơ Đường đến Nguyễn Du, nhưng chưa ai hay
bằng Nguyễn Bính tả liễu :
“Chiều về chầm chậm trong hiu quạnh
Tơ liễu theo nhau chảy xuống hồ”
Tơ liễu theo nhau chảy xuống hồ”
Chỉ
bằng từ “chảy”, Nguyễn Bính không chỉ hiện đại hóa thơ mình, ông còn làm mới cả
hồn tơ liễu nghìn năm. Nguyễn Bính làm thơ rất bản năng, thậm chí như vô thức.
Số lượng câu thơ hay của ông nhiều hơn bất cứ nhà thơ tiền chiến nào khác.
Những câu thơ bất ngờ, hiện đại tới cùng này ai bảo Nguyễn Bính không mới :
“ Ở đây vô số những trời xanh”
Lối
viết này Tây hơn cả Tây !
Hoặc
quá ngạc nhiên khi ta đọc :
“ Xe ngựa chiều nay ngập thị thành
Chiều nay nàng bắt được trời xanh”
Chiều nay nàng bắt được trời xanh”
Hay
:
“ Giời mờ ngao ngán một loài mây”
Xin
lỗi, nếu ai trích được một câu của trường phái “tân con cóc” “ tân siêu thực”
của Việt Nam hay ngang những câu này của Nguyễn Bính, tôi xin thưởng ba vạn
chín nghìn con kiến,một trăm con voi !
Trong
dòng thơ tiền chiến, chúng tôi bao giờ cũng biết cách tôn kính Thế Lữ, ngả mũ
trước Xuân Diệu, thán phục Huy Cận, kinh ngạc trước Hàn Mặc tử, mơ mộng sầu
thương cùng Lưu Trọng Lư, Hồ Dếnh…Nhưng chúng tôi bao giờ cũng dành cho Nguyễn
Bính trọn niềm yêu mến, không chỉ là tấm lòng hậu sinh với bậc tiền bối, mà còn
vì tình yêu của độc giả mấy chục năm trời với thơ ông.
Chỉ
tính gần chục năm lại đây ( năm 1995 khi tác giả viết bài này) theo thống kê tạm
thời của một số nhà xuất bản, thơ Nguyễn Bính đã in và phát hành tới số kỷ lục
hàng triệu bản. Qua bao thăng trầm, Nguyễn Bính vẫn là nhà thơ số một được độc
giả Việt Nam hâm mộ nhất sau Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Trãi).
Ba
mươi năm đã qua kể từ năm Nguyễn Bính mầt buổi trưa ngày 30 tết ấy, có lẽ hình
ảnh đọng lại trong mắt thi hào Nguyễn Bính là vườm thuốc nam nhà ông Tân Thanh
hay một loài mây, hay loài bướm trắng nào vừa chìm xuống đáy ao trước khi ông
bụng không hạt cơm ngã xuống trong hôn mê và trong cơn đói vĩnh cửu ? Chỉ biết
rằng thi ca ông đã thành vị thuốc nam chữa lành nỗi đau và niềm hư vô kiếp
người.
Ông
không tìm lối xuyên tường đưa thơ Việt vào hiện đại như ai đó. Thơ ông thẩm
thấu qua trời sương khói, qua hồn ca dao, qua Truyện Kiều đưa nâu sồng lục bát
quê hương vào hiện đại. Xin đọc lại một câu thơ Nguyễn Bính :
“ Xót xa một buổi soi gương cũ
Thấy lệch bao nhiêu mặt chữ điền”
Thấy lệch bao nhiêu mặt chữ điền”
Ôi
những mắt chữ điền bị thời gian xô lệch muôn năm cũ, xin về đây soi lại chiếc
gương thi ca hiện đại muôn sau Nguyễn Bính.,.
Sài
Gòn 28-12-1995
T.M.H.
GHEN
(Bài thơ của Nguyễn Bính được
Trọng Khương phổ nhạc)
Cô nhân tình bé của tôi ơi!
Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười
Những lúc có tôi và mắt chỉ...
Nhìn tôi những lúc tôi xa xôi.
Tôi muốn cô đừng nghĩ đến ai,
Đừng hôn, dù thấy cánh hoa tươi,
Đừng ôm gối chiếc, đêm nay ngủ...
Đừng tắm chiều nay, biển lắm người.
Tôi muốn mùi thơm của nước hoa,
Mà cô thường xức, chẳng bay xa,
Chẳng làm ngây ngất người qua lại,
Dẫu chỉ qua đường, khách lại qua.
Tôi muốn những đêm đông giá lạnh
Chiêm bao đừng lẩn quất bên cô
Bằng không, tôi muốn cô đừng gặp
Một trẻ trai nào, trong giấc mơ.
Tôi muốn làn hơi cô thở nhẹ.
Đừng làm ẩm áo khách chưa quen.
Chân cô in vết trên đường bụi
Chẳng bước chân nào được dẫm lên.
Nghĩa là ghen quá đấy mà thôi,
Thế nghĩa là yêu quá mất rồi
Và nghĩa là cô là tất cả.
Cô là tất cả của riêng tôi
Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười
Những lúc có tôi và mắt chỉ...
Nhìn tôi những lúc tôi xa xôi.
Tôi muốn cô đừng nghĩ đến ai,
Đừng hôn, dù thấy cánh hoa tươi,
Đừng ôm gối chiếc, đêm nay ngủ...
Đừng tắm chiều nay, biển lắm người.
Tôi muốn mùi thơm của nước hoa,
Mà cô thường xức, chẳng bay xa,
Chẳng làm ngây ngất người qua lại,
Dẫu chỉ qua đường, khách lại qua.
Tôi muốn những đêm đông giá lạnh
Chiêm bao đừng lẩn quất bên cô
Bằng không, tôi muốn cô đừng gặp
Một trẻ trai nào, trong giấc mơ.
Tôi muốn làn hơi cô thở nhẹ.
Đừng làm ẩm áo khách chưa quen.
Chân cô in vết trên đường bụi
Chẳng bước chân nào được dẫm lên.
Nghĩa là ghen quá đấy mà thôi,
Thế nghĩa là yêu quá mất rồi
Và nghĩa là cô là tất cả.
Cô là tất cả của riêng tôi